Dương Thu Hương:
Giải ảo là thứ quả chín muộn
08 Tháng Mười Hai 201312:00 SA(Xem: 4433)
JuicePlus+
tquy.TowerGarden.com
Posted on October 18, 2013 by editor
Dương thu Hương
Giải ảo là thứ quả chín muộn
Dương thu Hương
Sự thất vọng của con người thường được biểu đạt bằng hai danh từ: Giải ảo và Vỡ mộng.
Các dịch giả Việt Nam dùng hai danh từ này tuỳ theo ngữ cảnh của nhóm từ Pháp: désillusionné, désenchanté, désabusé, déçu.
Tôi chọn hai từ désenchanté và désabusé để làm bệ đỡ cho sự Giải ảo và Vỡ mộng của người Việt Nam sau cuộc chiến.
Xét
trên phương diện tâm lý, cuộc chiến tranh Việt-Mỹ có thể ví như một cơn
nhập đồng tập thể. Một cá nhân, trong trạng thái nhập đồng, có thể làm
được những điều mà bình thường họ không thể nào làm nổi. Khi trạng thái
nhập đồng chấm dứt, con người cũng đánh mất khả năng ấy.
Ngô Thị Tuyển, nữ dân quân tham gia
chiến đấu bảo vệ cầu Hàm Rồng (1965) –
Nguồn ảnh: Phạm Kỉnh
Ví
dụ rõ ràng nhất là trường hợp anh hùng Ngô thị Tuyển.Trong một cuộc máy
bay Mỹ oanh tạc, để tiếp đạn cho các pháo thủ, Ngô thị Tuyển đã vác
những hòm đạn nặng hơn trọng lượng thân thể của chị nhiều. Bởi vì cuộc
chiến đấu kéo dài, hành động anh hùng của Ngô thị Tuyển diễn ra trước
mắt tất cả mọi người, từ dân chúng, đồng đội đến các chiến sỹ pháo binh.
Thế nhưng, khi các nhà báo Hà Nội yêu cầu chị diễn lại để quay phim,
chị Tuyển không làm được nữa. Trước hết, cần phải nói rằng các nhà báo
lúc ấy hoặc ấu trĩ hoặc hồ đồ vì không hiểu điều này: Cốt lõi hành động
của Ngô thị Tuyển là lòng yêu nước cộng với bản năng tồn sinh. Vào lúc
bom đạn tơi bời như thế, máy bay giặc quần thảo trên trời, tiếng rú rít
của máy bay, tiếng nổ của đạn pháo, tiếng kêu thét của những người chết
và bị thương tạo thành một bối cảnh tột độ căng thẳng, tình thế ấy đòi
hỏi con người phải có những nỗ lực bất thường để vượt qua những nguy
hiểm bất thường. Khi phải đối mặt với cái chết, không những của bản thân
mà của đồng bào, đồng đội, mà phía sau những cái chết cụ thể ấy, là một
cái chết vô hình hơn, cái chết của tổ quốc, những người dân yêu nước
đều có khả năng làm một điều gì đó: lớn hơn bản thân họ, mạnh hơn sức
lực của họ, vượt lên trên những toan tính thông thường của đời họ. Đó
chính là những giây phút tạo ra các anh hùng.
Đó là sự siêu tuyệt thuần tuý (Une pure transcendance).
Khi
trạng thái hưng phấn cao độ, sự siêu tuyệt qua đi, con người trở lại
với chính bản thân họ, với các khả năng hữu hạn của họ mà yêu cầu họ
“diễn lại như thật” các hành vi lúc nhập đồng thì hoàn toàn là điều ngu
ngốc, thậm chí điên rồ. Thử hỏi các đạo diễn điện ảnh xem, nếu các diễn
viên của họ phải vác một cái chuỳ thật sự nặng ba chục cân chứ không
phải chuỳ bằng nhựa, liệu họ còn sức diễn nữa hay không? Những nhà báo
này cũng thiếu kiến thức và sự từng trải để hiểu con người: Phàm đã là
người đứng đắn, không ai đủ trơ trẽn để “diễn một màn tự khoe mình”; chỉ
có những kẻ vô liêm sỉ và cơ hội mới làm điều đó. Nhìn ảnh thì biết Ngô
thị Tuyển là một thôn nữ thật thà, chất phác, chị ấy từ chối diễn cũng
không có gì là lạ. Lúc đó, để biểu diễn những màn “chiến thắng” nhằm
tuyên truyền với báo chí trong và ngoài nước đã sẵn có cô Nguyễn Thị
Hằng, người nhờ nhan sắc, nhờ ôm ấp kỹ ông Quang, chỉ huy quân khu tả
ngạn, được đưa lên thủ đô. Ở thủ đô, sau khi trở thành bồ non của ông Lê
Đức Thọ, cô lại được ông Lê khả Phiêu tổng bí thư đảng bổ nhiệm vào
chức Bộ trưởng bộ thương binh xã hội. Dân Thanh hoá có câu: “Cô Tuyển
vác đạn, con đĩ Hằng lên ngôi ”
Trong cuộc chiến tranh Việt-Mỹ,
có vô số Ngô thị Tuyển. Cả dân tộc sống trong trạng thái Nhập đồng. Làm
sao có thể khác được khi phải đối mặt với một địch thủ mạnh hơn mình cả
ngàn lần? Hoặc là chết một cách bị động, hoặc phải chịu đựng sự thách
thức của lịch sử bằng những nỗ lực vượt lên bản thân và phải biết chấp
nhận cái chết một cách chủ động. Có lẽ, nghịch lý này cũng có tính phổ
biến nếu ta đọc lại các cuộc chiến tranh từ thời thượng cổ đến ngày nay.
Dân tộc Việt Nam không phải dân tộc duy nhất có khả năng tiến hành
những cuộc chiến tranh không cân sức, và lòng yêu nước cũng không phải
đặc tính riêng biệt của những người cộng sản Việt Nam như ông Tố Hữu tự
nhận. Thói tự khoe khoang là biểu hiện của sự vô văn hoá hoặc tính mù
quáng. Đáng tiếc thay, trong một thời gian dài, cả xã hội Việt Nam đã
tiêm nhiễm thói tự ngạo mù quáng này. Đóng góp đáng kể nhất để tạo nên
cái tâm lý ấy là những bài viết của lớp “nhà báo tinh hoa của Đảng” kiểu
như ông Thép Mới, và đặc biệt là các câu thơ đầy tính hào nhoáng của
ông Tố Hữu:
“Ta đang đứng trên đỉnh cao thời đại”
“Lương tâm nhân loại kí thác vào ta”
“Sứ mệnh của ta là thức tỉnh lương tâm nhân loại”…
Những
câu thơ kêu như cả đội kèn nhà binh thổi to hết cỡ, đầy ngập những tính
từ như hùng tráng, chói lọi, cao cả… Tôi vốn không thích thơ Tố Hữu
nhưng ít nhất, tôi cũng ngỡ những điều ông ta nói có đôi ba phần sự
thật. Ai có thể ngờ được khả năng phét lác của “nhà thơ Lớn”, một trong
số các rường cột quốc gia? Cuối hè năm 1984, tôi đến Mạc Tư Khoa, thủ đô
Liên bang Xô viết, trong phái đoàn gọi là điện ảnh trẻ nhưng trên thực
tế toàn những người xấp xỉ sáu mươi, tôi được coi như trẻ nhất cũng sắp
40 rồi. Đó là lần đầu tiên tôi đặt chân đến một xứ sở khác. Đứng trong
khách sạn, nhìn xuống đường, gặp đúng lúc một đoàn Việt Nam khoảng ba,
bốn chục người đi thành hàng ba bên vỉa hè đối diện. Chắc chắn đó là một
đoàn cán bộ được đảng và nhà nước cho phép đi tham quan. Lần đầu tiên
tôi bắt gặp hình ảnh thật của đồng bào mình: đó là những con người nhếch
nhác, gầy guộc, ngơ ngác, rúm ró trong những bộ complet đen của bộ tài
chính cho mượn. Vì phải mặc những thứ quần áo không phải của chính mình,
trông họ khổ sở và ngượng nghịu. Vì bước tới một nơi xa lạ, lại không
biết tiếng, họ có bộ mặt hoảng hốt, thất thần. Người đi sau phải níu vạt
áo người đi trước vì sợ lạc, những người ở hàng trên cùng thì bám sát
gót một người Nga, hẳn là người hướng dẫn và cũng là phiên dịch.
Vừa nhìn đám đồng bào khốn khổ của mình, tôi vừa tự nhủ:
“Đây
là những người ở rừng ra, những người bị rút kiệt máu sau một cuộc
chiến tranh lâu dài và cam khổ. Những người không biết đến sự sống mà
chỉ quen đối mặt với cái chết. Giờ đây, giữa ban ngày, giữa đô thị, ở
một phương trời khác, họ hiện hình như các bóng ma đi ra từ những miền u
tối. Họ là sự cụ thể hoá bộ mặt tàn bạo của chiến tranh. Hình ảnh của
họ là hình ảnh tượng trưng cho dân tộc chúng ta, một dân tộc chưa bao
giờ được sống thực sự. Một dân tộc sống sót. Một dân tộc kiên trì mơ ước
sống, chuẩn bị sống, nhưng cuộc sống với đúng nghĩa của nó chưa đi tới.
”
Và tôi nhớ lại những câu thơ của ông Tố Hữu. Lúc này, những
câu thơ ấy vang trong óc tôi như tiếng rít ghê tai của bánh xe lửa
nghiến trên đường ray. Lẽ ra, thay vì khoe khoang hão, nhà nước Việt Nam
phải chú ý đến đời sống các chiến binh của họ, ít ra lo cho họ được đôi
giầy vừa cỡ, được tấm áo vừa lưng, trước khi đưa họ lên tầu. Như thế,
không chỉ riêng ông Lê Duẩn mà ông Tố Hữu và rất nhiều lãnh tụ cộng sản
Việt Nam khác cũng mắc bệnh vĩ cuồng, họ ngửa mặt nhìn lên mặt trăng,
tưởng mình đang đứng trên mặt trăng trong khi công dân của họ diễu hành
trên các hè phố Mạc Tư Khoa như một đám ăn mày. Tôi ngồi chết dí trong
khách sạn, khóc. Ông Tô Hoàng, một sinh viên Việt Nam đang theo học tại
trường điện ảnh VGIC đến thăm, liền bảo:
“Con mụ này, người ta đi Liên xô thì cười tươi như hoa, mụ thì khóc như bị đi đầy ở Nghệ Tĩnh. Đúng là rồ.”
Tôi
không trả lời. Ông Tô Hoàng cũng đã từng đi lính nhưng rất nhanh đã
được quay về hậu phương và được chọn ra nước ngoài học. So với thân phận
hàng triệu thanh niên thời ấy, ông là kẻ may mắn. Ông chưa từng chứng
kiến cảnh những bầy kiền kiền no nê xác lính đến mức không bay lên nổi.
Ông cũng không chứng kiến cảnh dân thường chết dưới bom B52 Mỹ. Ông cảm
thấy sung sướng khi ở nước Nga là dễ hiểu. Nước mắt của tôi là điều bất
khả tri đối với ông.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi thuộc số
những người vỡ mộng sớm nhất. Nhưng chỉ vài năm sau, con số những kẻ vỡ
mộng tăng lên một cách không ngừng. Đầu những năm 80 sự đói khổ về vật
chất là con quỷ hiện hình cả ngày lẫn đêm trên toàn cõi. Đói khổ là món
quà chia đều cho toàn dân, trừ một số người nắm quyền. Sự giàu có và xa
hoa của một thiểu số cộng sản giống như vòi nước lạnh hắt vào mặt dân
chúng. Hiển nhiên là trong dân chúng, có vô số kẻ từ chiến trường cởi áo
lính trở về. Như cuốn “Bên thắng cuộc” của ông Huy Đức đã nêu, những
người anh hùng lái xe tăng 390 “cắm lá cờ lên dinh độc lập” sau khi giải
ngũ, một anh đánh giậm, một anh cắt tóc, một anh lái xe lam, một anh
gác đầm cá, sống trong cảnh lam lũ. Tuy nhiên, họ còn cơ may được nhà
báo và nhiếp ảnh Pháp Françoise De Mulder trả lại lẽ công bằng vào năm
2003. Nhưng họ chỉ là bốn người, một tuyệt đại thiểu số. Còn hàng triệu
người lính khác, khi trở về cuộc sống của dân thường, đối mặt với nỗi
đói khổ và sự áp bức của hệ thống cường hào địa phương, lúc đó họ nghĩ
gì?
“Chúng ta đổ máu để cho ai?”
Khi ra đi, ai cũng nghĩ
là chiến đấu cho độc lập dân tộc nhưng dần dà, mọi người đều ngờ ngợ
rằng mình lầm. Người Mỹ không đến chiếm đất đai, không thu hải sản,
không bắt dân mò ngọc trai, nộp đá quý. Tóm lại, hoàn toàn không giống
cái sơ đồ quen thuộc mà họ đã hình dung về quân Minh, quân Nguyên và
quân Thanh. Khi ra trận, ai cũng có ý định ngầm ẩn là thích vào trán hai
từ “Sát Thát”. Bây giờ nghĩ lại, cảm thấy có gì đó bất ổn và danh từ
“quân xâm lược Envahisseurs” có vẻ như không thích hợp trong trường hợp
này.
“Vậy ta chiến đấu để làm gì?”
Để cho chủ nghĩa cộng sản chiến thắng và cụ thể hơn, để mấy ông lớn cộng sản cầm quyền, đó là điều hiển nhiên ai cũng thấy.
Các
ông lớn cộng sản giờ nắm trong tay tất thảy chiến lợi phẩm mà xương máu
hàng chục triệu người đổi lấy: Trước hết họ nắm trong tay mười sáu tấn
vàng của kho Long Thành. Họ nắm trong tay toàn bộ số vàng, kim cương
cũng như ngoại tệ của dân miền Nam kẹt trong các nhà băng. Nhưng sau
rốt, nguồn tài sản sau đây mới là quan trọng: Họ biển thủ toàn bộ số
vàng mà lính áp tải về sau cuộc giải phóng Căm-pu-chia, số lính này quá
đông nên họ không thể xử lý biện pháp quen thuộc của vua chúa xưa kia là
chôn sống. Những người lính này sau khi giải ngũ đã cất tiếng thở dài:
“Biết thế hồi đó thủ một nắm cho vào túi thì giờ đây đỡ khổ!”
“Bây giờ mới biết mình ngu. Lẽ ra hồi ấy…”
Biết thế! Lẽ ra! Nếu như … Toàn những lời than thở muộn màng.
Tiếng Pháp có một thành ngữ khá hay: Après coup! Người ta chỉ hiểu được sự thật khi mọi sự đã lỡ làng.
Năm
1991, những vụ hoá giá biệt thự xảy ra và khá nhiều người biết đám quan
lại như Lê Hãn (con trai trưởng Lê Duẩn), Trần Bạch Đằng, Trần Văn
Giàu, Dương Quang Đông… cùng nhiều ông lớn khác bán mỗi biệt thự trên
hai ngàn cây vàng bỏ túi. Lúc đó, bà Ngô Bá Thành, đại biểu quốc hội đã
kêu lên:
“Thành phố tham nhũng tập thể, cướp công trình của cả dân tộc, chia chác xương máu của cả nước”.
Nhưng
bà Ngô Bá Thành cũng như đa phần dân chúng còn không biết đến những
nguồn vàng to lớn hơn, quan trọng hơn, mà kẻ cầm quyền đã chia chác
trong bóng đêm.
Nỗi đau khổ chiến tranh, toàn dân phải gánh chịu,
nhưng bộ phận chịu đựng sự mất mát lớn nhất vẫn là những người cầm súng
và gia đình họ. Vào khoảng 2004, 2005, một tờ báo công nhận con số mất
tích trong chiến tranh là trên 900.000, có nghĩa là ngót nghét một
triệu. Nhà cầm quyền có thể công bố con số giả về sự tử vong nhưng con
số mất tích thì khó bôi xoá vì sau chiến tranh hai, ba chục năm, những
gia đình có con em mất tích vẫn tiếp tục khiếu kiện và đi tìm thân nhân
của họ. Trong lúc đó, khoảng cách giữa các ông lớn cầm quyền với dân
chúng càng ngày càng xa, giống như bờ đất lở.
Từ xưa đã có câu: “Tình đời thay trắng đổi đen.”
Không có gì cũ hơn và cũng chẳng có gì mới hơn là sự bội phản của người với người.
Lúc
cần làm cuộc chiến tranh, ban tuyên huấn trung ương đảng tìm được cả
một đội quân tuyên truyền để ngợi ca người lính. Thêm vào đó, không kể
những người ăn lương để làm “tâm lý chiến” còn vô số người sáng tác theo
chính cảm hứng và nhận thức của mình. Ý chí chống ngoại xâm vốn là
nguồn cảm hứng cỗi rễ của một dân tộc không ngừng tranh đấu để giành
quyền tự chủ như dân Việt Nam. Cố nhà văn Nguyễn Minh Châu viết cuốn
“Dấu chân người lính”, cuốn sách thuộc loại best-seller đầu bảng lúc ra
lò. Nhạc sĩ Vũ trọng Hối viết ca khúc tuyệt đẹp:
“Ta vượt trên triền núi cao Trường sơn.
Núi mòn mà đôi gót không mòn…”
Nguyễn
Minh Châu, Vũ Trọng Hối không phải bị cưỡng chế mà viết, họ viết với
tất cả sự chân thành và niềm cảm hứng. Cũng như những người lính khác
bước vào chiến đấu, họ sáng tác trong trạng thái Nhập đồng, hoặc nói văn
vẻ hơn, trạng thái Siêu tuyệt (Transcendance). Lúc đó, chưa ai có đủ
từng trải lẫn thông tin để hiểu sự thật.
Hơn một thập kỷ sau, vào
năm 1985, Nguyễn Minh Châu (sinh năm 1930) hẳn đã vỡ mộng nên đã nói
với tôi trên trại sáng tác Đại Lải của Hội nhà văn:
“Mình xui con người ta đi vào chỗ chết. Biết đâu sự thể nó lại ra thế này?…”
Rồi anh thở dài và im lặng. Nguyễn Minh Châu vốn là người kín đáo, thường tự nhận một cách công khai trước đồng nghiệp:
“Tôi nhát lắm, tôi sợ chết lắm. Vua chúa châu Á vốn coi nhà văn ngang với bọn ăn mày. Chúng ta phải biết thân biết phận.”
Tuy
sợ chết, anh vẫn không tránh được cái chết. Chừng vài năm sau ngày gặp
tôi trên trại viết văn Đại Lải, anh chết vì ung thư máu, do nhiễm chất
độc màu da cam trong chiến trường Quảng trị. Đó là một nhà văn quân đội,
đã từng sống khá lâu với lính Trường sơn. Tuy nhiên, anh chết sớm còn
là may, nếu sống thêm một vài năm nữa, anh sẽ phải chứng kiến sự phản
bội tàn độc của những kẻ cầm quyền đối với binh lính, và con tim nhút
nhát của anh sẽ phải dày vò quằn quại một cách dữ dội hơn nếu anh thấy
những người anh hùng năm xưa “Xẻ dọc trường sơn đi đánh Mỹ” đã biến
thành “Những thằng tù không số, bị giết dần trong các nhà giam”.
Đó là sự kiện xẩy ra cuối thập kỷ 80, gần như cùng lúc với vụ Thiên An Môn ở Trung quốc.
Tôi tạm gọi là Thiên An Môn Việt Nam.
Vì sao lại là Thiên An Môn?
Vì
bản chất sự việc cũng là một cuộc tàn sát dân chúng để bảo vệ nền
chuyên chính và số lượng người thiệt mạng cũng ngang ngửa với vụ Thiên
An Môn xẩy ra ở Tầu.
Thời đại của chúng ta là thời đại truyền thông.
Thiên
An Môn Trung quốc có cơ may được biết đến vì nó xảy ra giữa ban ngày,
tại Bắc kinh, nơi báo chí thế giới làm việc. Nhà cầm quyền Trung quốc
vốn cứng rắn, không thèm đếm xỉa tới dư luận nước ngoài nên họ không che
giấu hoặc nguỵ trang cuộc tàn sát dân chúng. Như thế, nhân loại biết
được sự kiện này nhờ thói ngạo mạn của ông vua Đặng tiểu Bình.
Ngược
lại trăm phần trăm, Thiên An Môn Việt Nam xẩy ra trong bóng đêm, tại
các tỉnh, trước hết là Thái Bình, nơi các phóng viên báo chí thế giới bị
ngăn cấm đi tới. Nhà cầm quyền Việt Nam không dám ngỗ ngược thách thức
dư luận thế giới như các bậc đàn anh Trung Hoa, họ chọn con đường mềm
dẻo hơn, khôn ngoan hơn và hiệu quả hơn. Số người bị chết trong cuộc tàn
sát này là khoảng giữa một ngàn với hai ngàn, có nghĩa là bằng số người
bị bắn chết trên quảng trường Thiên An Môn nhưng sự giết chóc diễn ra
từ từ, lặng lẽ, trong các trại giam khác nhau, không một tiếng kêu nào
lọt được ra ngoài, không một ống kính thu hình nào ghi lại được. Nhà cầm
quyền Việt Nam, hành động theo truyền thống du kích, có nghĩa là ẩn
mình trong bóng tối, nói cách khác, họ thực thi các biện pháp độc ác một
cách uyển chuyển của loài rắn rết (à la façon reptilienne). Họ thành
công tuyệt đối. An toàn tuyệt đối. Tuy nhiên, cũng vì không thể giết hết
gia đình của các cựu chiến binh nên những người như chúng tôi mới có
thể điều tra về cuộc tàn sát này.
Tôi xin kể vắn tắt:
Thời gian ấy, tôi vẫn thường gặp gỡ các ông Hoàng Minh Chính, Trần Độ, Nguyễn Kiến Giang. Một bữa, ông Độ bảo:
-
Mấy hôm nay họ tăng cường số công an gác cửa nhà tôi. Họ nghi cô với
tôi chỉ đạo cuộc nổi dậy của các cựu chiến binh ở Thái Bình.
- Vì sao? Tôi hỏi.
Ông Trần Độ trả lời:
-
Tại vì cô là dân Duyên hà còn tôi là dân Tiền hải. Chúng ta đều có gốc ở
tỉnh Thái lọ. Thêm nữa, tôi là tướng còn cô cũng là dân từ Quảng bình
khói lửa trở về. Họ cho rằng chúng ta xúi giục cựu chiến binh.
Tôi nói:
-
Tôi có biết gì đâu. Đã gần một tháng nay tôi ngồi viết, không tiếp xúc
với ai, không rời khỏi nhà quá một trăm mét. Hành trình của tôi chỉ bao
gồm từ tầng ba khu chung cư xuống mặt đường rồi lại leo lên. Vài ngày
một lần tôi xuống đường mua thực phẩm. Tuy nhiên, nếu họ đã ngờ vực tôi
xúi giục cuộc khởi dậy này, tôi sẽ điều tra sự thật về nó, như thế, để
khỏi phụ lòng bộ nội vụ Việt Nam.
Ông Độ bảo:
- Nhưng cô cũng bị theo rõi mà.
Tôi đáp:
-
Đương nhiên. Nhưng bọn công an không thể theo rõi tôi 24 trên 24, buổi
tối chúng nó phải về chăm con và ngủ với vợ. Vả chăng, trước kia Việt
minh hoạt động du kích ra sao thì bây giờ tôi cũng hoạt động du kích
đúng như vậy. Thêm nữa, tôi không phải một mình cho dù các nhà báo Pháp
đặt cho tôi biệt danh “Con sói cái đơn độc”. Không ai có thể chiến đấu
một mình trừ các vị thánh. Tôi không phải là thánh, tôi là người.
Phong
trào đấu tranh của các cựu chiến binh tỉnh Thái Bình khởi dậy ở Quỳnh
Lưu, một trong các xã nghèo nhất tỉnh. Ở đây, chính các cựu chiến binh
là những người đầu tiên phát hiện ra các vụ “thu thuế đểu” của bọn hào
lý. Họ phát động dân chúng lên thành phố biểu tình, yêu cầu tỉnh uỷ trả
lại dân các món tiền thu khống. Dường như ở tất cả các xã, cựu chiến
binh đều là lực lượng đầu tầu hướng dẫn dân chúng đấu tranh. Phong trào
nhanh chóng lan sang các huyện khác. Rồi từ tỉnh Thái Bình, cuộc biến
động lan sang Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định và một phần Quảng Ninh. Lúc
đó, có khá nhiều nhà báo nước ngoài đòi xuống các tỉnh để xem xét tình
hình. Công an Hà Nội trả lời một cách mềm mỏng:
“Xin các vị chờ một vài ngày để chúng tôi sắp xếp phương tiện đi lại. Nếu các vị đi bây giờ e rằng mất an toàn.”
Họ
khất lần như vậy. Ngày nọ qua ngày kia, đám nhà báo mất kiên nhẫn. Việt
Nam đã bị lãng quên, chẳng có gì đáng làm một cuộc đầu tư lớn, kể cả
thời gian lẫn tiền bạc. Các điểm nóng của hành tinh đã chuyển sang vùng
đất khác. Vậy là, các phóng viên nước ngoài, sau một hồi chờ đợi mỏi
mệt, người nọ theo người kia lần lượt leo lên thang máy bay. Một khi,
không còn ống kính báo chí nào ở Hà Nội, chính quyền lập tức tổ chức một
cuộc bắt bớ rầm rộ ở khắp các địa phương. Đương nhiên, số lượng người
bị bắt nhiều nhất vẫn là ở Thái Bình.
Nửa đêm, xe hòm thép của
công an ập vào từng làng, dưới sự dẫn đường của cán bộ xã, lôi những “kẻ
đầu sỏ” các cuộc biểu tình lên xe, trước tiếng kêu la gào thét của thân
nhân lẫn láng giềng. Không cần tuyên bố, cũng chẳng có cáo trạng, các
cuộc bắt bớ này diễn ra giống hệt các cuộc vây ráp, khủng bố của thực
dân Pháp trước đây nếu không muốn nói là còn tàn bạo hơn. Sau đêm ấy,
gia đình các cựu chiến binh không có cách nào liên lạc được với thân
nhân của họ. Những ông bố, bà mẹ, những người vợ hội họp nhau để đi kêu
cứu. Nếu ai sống ở Hà Nội vào thời gian đó, sẽ nhớ rằng có những ngày
đột nhiên con phố Trần Bình Trọng bị bít kín hai đầu, ngăn xe qua lại.
Ấy là vì thân nhân các cựu chiến binh biểu tình ở cổng bộ nội vụ (số 15
Trần bình Trọng), đòi trả lời về những người bị bắt. Không ai đánh đập
họ nhưng cũng không ai tiếp họ. Đám dân khốn khổ ngồi giãi nắng qua
trưa, được các quan lớn phát một chiếc bánh mì rồi tống lên xe tải chở
về Thái Bình. Nhưng đến nửa đường, lái xe dừng lại (đương nhiên là theo
lệnh bề trên), đuổi đám dân quê xuống, bắt buộc họ phải đi bộ bốn năm
chục cây số mới về đến làng. Tình trạng giao thông ở Việt Nam thời ấy vô
cùng tồi tệ và khoảng cách là một trở ngại mà con người, trước hết là
các nông dân, không đủ phương tiện, không có tiền nong, khó có thể vượt
qua. Như thế, qua vài lượt, những người dân quê cạn kiệt hơi sức, cũng
chẳng còn tiền mua vé xe lên Hà Nội tranh đấu nữa. Họ đành phải câm lặng
chịu đựng. Chịu đựng, vốn là thói quen cố hữu của dân Việt Nam.
Trong lúc ấy, số phận những cựu chiến binh ra sao?
Vỡ mộng. Nguồn: Orangeya’s photostream
Họ
bị phân bố vào các nhà tù khác nhau nằm rải rác trên toàn quốc, người
nọ không còn liên lạc được với người kia. Sau vài tuần, họ bị chuyển đến
sống trong các trại giam dành cho bọn tội phạm đặc biệt, những kẻ mang
án chung thân hoặc ít nhất hai mươi lăm năm tù, những kẻ hung hãn, giết
người không ghê tay. Ở đó, họ được thanh toán một cách dần dà bởi chính
đám tù này. Giết một cựu chiến binh, án được giảm hai năm. Giết hai, án
được giảm bốn năm. Tỷ lệ cứ theo thế mà nhân lên, càng giết được nhiều,
càng nhanh được giải phóng. Vì thế, cuộc tàn sát trở thành một “sự
nghiệp quan trọng” một cuộc “đua tranh” của bọn tội đồ. Chúng giết họ
theo nhiều kiểu khác nhau. Nhưng cách được xử dụng nhiều nhất là “cắm
đũa”. Vì trong trại giam, những vật được coi là vũ khí đều bị cấm nên
đám quản giáo chỉ thị ngầm cho bọn phạm là chỉ sử dụng các vũ khí đặc
biệt “tiện lợi, nhẹ gọn”. Phương tiện hữu hiệu nhất là đũa tre. Những
chiếc đũa được vót bằng tre đực già, cứng như sắt, một đầu được mài nhọn
như kim, đầu kia để tù kiểu như đầu một que đan. Khi đã có được thứ
“kiếm tre” này, bọn tội phạm rình lúc các cựu chiến binh ngủ say, ấn đầu
đũa nhọn vào lỗ tai họ đồng thời dùng mu bàn tay hoặc một hòn đá quả
xoài thay cho chiếc búa, đóng thật mạnh vào đầu tù của chiếc đũa cho nó
xuyên từ tai nọ sang tai kia. Người bị hại chết ngay tức khắc, chết
không một tiếng kêu. Kiểu chết này là thứ sáng tạo vô cùng độc đáo của
công an Việt Nam đáng được ghi vào sử sách. Những người cựu chiến binh,
đám anh hùng Trường Sơn năm xưa, những chàng trai “vừa ca hát vừa đi vào
chiến trường” đã được Đảng thân yêu của họ xử lý theo cách đó.
Trong
nhóm đấu tranh của tôi có một người cũng là cựu chiến binh, trong chiến
tranh Việt-Mỹ đã hai lần được đề bạt là anh hùng và cả hai lần đều
trượt vì mắc tội chửi cấp trên là: “Lũ chó, chúng mày ham thành tích,
chúng mày giết lính”.
Lúc xảy ra vụ Thiên An Môn Việt Nam, anh
rất lo cho số phận một người đồng đội cũ nên đến Quảng Ninh tìm. Anh bạn
Quảng Ninh nổi tiếng là một tay thiện xạ trong chiến tranh, ngực treo
đầy huân chương, may mắn không bị bắt vì suốt thời gian xảy ra cuộc biến
động phải ở trong bệnh viện nuôi đứa con bị bệnh nặng. Nhưng hai người
bạn thân nhất của anh đã chết trong tù. Người cựu chiến binh này đã để
nước mắt rơi lã chã và nghiến răng nói:
“Những viên đạn của tôi bay lạc. Đáng lẽ chúng phải găm vào đầu những thằng khác.”
Đáng lẽ!…
Đây
là sự vỡ mộng của một người lính bị phản bội. Sự vỡ mộng ấy kèm theo
ước muốn trả thù, nó bạo liệt hơn hơn tất thảy các trạng thái vỡ mộng
thông thường, chỉ bộc lộ bằng những tiếng thở dài ảo não.
*****
Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ là cuộc chiến tranh mà truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam đã bị lạm dụng ở mức tối đa.
Xương máu của lính và dân đổ xuống đã xây nên bức tường thành theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa thực.
Bức tường thành đồ sộ ấy có thể là khải hoàn môn cho người này và là cổng vào địa ngục cho người kia, tuỳ theo cách nhìn của họ.
Đối với tôi, đó là bằng chứng kinh khủng nhất cho sự nhầm lẫn của con người.
Paris ngày 11 tháng 2 năm 2013.
Nguồn: DCVOnline
Quốc Phương BBC
Phỏng vấn nhà văn Dương Thu Hương
"Từ
khi tôi rời khỏi đất nước, tôi chẳng có xuân với Tết gì hết," nhà văn
Dương Thu Hương, tác giả cuốn tiểu thuyết 'Đỉnh cao chói lọi' đang gây
nhiều dư luận trong và ngoài nước, cho BBC hay về việc đón Tết nguyên
đán mới đây trong một phỏng vấn dài đầu năm.
"Tôi ở đây
có một mình và tôi cũng ít tiếp xúc với mọi người. Tôi hay khép kín mình
ở trong phòng làm việc suốt trừ những khi phải đi các tỉnh gặp gỡ độc
giả, hoặc tham gia những hội chợ, các conference quốc tế," nhà văn nói
về cuộc sống riêng của mình.
"Cảm ơn những lời chúc mừng của mọi
người, sách cũng mới phát hành thôi nên tôi hiện chưa biết được kết quả
ra sao. Chỉ biết là dù sao cũng trả được một món nợ với những người đã
mất," bà Hương nói.
Trung tuần tháng này, chương trình văn hoá
bằng tiếng Anh 'Strand', thuộc Thế giới vụ Đài BBC sẽ phát sóng một phần
cuộc trao đổi giữa nhà văn nữ bất đồng chính kiến với BBC Việt ngữ, mà
nội dung chính mời quý vị theo dõi sau đây.

Con chuột trong hang
Tôi
vẫn sống cuộc sống của một người như con chuột trong hang thôi, chỉ có
một mình, mà Xuân phải đông đủ gia đình thì mới gọi là xuân được. Tết
này tôi cũng được nhiều bạn bè mời đến nhà ăn tết nhưng tôi cũng ngại.
Thành ra đối với tôi, xuân với hè cũng như nhau.
Tôi vẫn nhận
được nhiều thư từ, điện thoại từ bạn bè. Tuy được nhà nước Việt Nam coi
là kẻ thù, nhưng tôi lại có nhiều bạn, kể cả các bạn quốc tế.
Con
cái tôi cũng có gọi điện. Đặc biệt những nhân vật quan trọng nhất của
tôi là các cháu cũng gọi điện 'chúc bà thêm một tuổi'. Nhưng làm bà thì
cũng 'đau đớn' lắm vì thêm một tuổi thì lưng thêm còng, gánh thêm nặng.
Nhưng như thế thì cũng vui.
Bà Hương ngại Internet chiếm mất nhiều thời gian

Về lại Việt Nam ư, từ lâu nay, tôi sống
ngày nào biết ngày ấy. Tôi không có kế hoạch lâu dài. Vả chăng tôi còn
một chương trình làm việc dự định ở một nước khác, tôi cũng đã 60 tuổi
rồi.
Internet, tiếng Pháp và cơm Việt
Tôi
không có Internet và kiên quyết không có Internet vì vào Internet chắc
chắn là nhiều thông tin, rồi lại đến thư từ, thành ra tôi không có thì
giờ mà phải tập trung làm việc.
Tin tức ở Việt Nam thì tôi cũng
có mấy nhóm thân cận bên này. Thỉnh thoảng có tin tức gì quan trọng, các
cháu hay bạn bè lại in ra cho tôi đọc. Thành ra tôi vẫn cập nhật được
tình hình chung bên nhà.
Với các báo đài, truyền thông, tôi cũng
ít có thời gian theo dõi. Tôi cũng lớn tuổi rồi và không hề có ảo vọng
về sức khoẻ của mình. Một điều nữa là phải hình dung được một người ở
tuổi 50, 60 nay đi học một thứ ngoại ngữ vất vả như thế nào.
Hồ Chí Minh từ lâu đã biến thành một hình nộm bị dùng bởi hai thế lực lịch sử
Dương Thu Hương
Tôi
từ khi sang đây, ngoài lúc làm việc ra, phải tập trung vào học ngoại
ngữ để có thể tiếp xúc, giao tiếp với mọi người. Vì chẳng lẽ lúc nào
cũng phải thông qua phiên dịch. Những người trẻ sán lạn không thể nào
hiểu được những người già 'tăm tối' khi họ phải học một món ngoại ngữ ở
tuổi 50.
Về Tết thì thực ra tôi quanh năm đều có đồ châu Á. Ở
Paris đặc biệt không thiếu đồ châu Á , lại có nhiều nhà hàng Á nữa. Chỉ
có thiếu thời gian để nấu thôi vì tôi ở một mình, không thể nấu cơm Việt
được.
Nói vậy nhưng nấu cơm Việt Nam vô cùng phức tạp. Phải từ
2-3 người trở lên mới bõ. Không bao giờ làm cơm Việt Nam một mình, vì nó
phải đủ món.
Tôi là người 'răng đen mắt toét' nên những món tôi
ưa thích như canh cua, bánh đúc không có được. Thành ra để thay thế,
thỉnh thoảng tôi đi ăn phở hoặc đành vuốt bụng thôi. Không làm thế nào
được.
'Đỉnh cao chói lọi'
Để tìm hiểu
lịch sử và nhìn lại chân lý là một việc nan giải và không dễ dàng gì để
tiếp nhận. Bởi vì con người ta luôn luôn là nô lệ cho một hệ thống giả
định. Những hệ thống ý tưởng giả định đó khi đã cắm sâu vào đầu con
người thì rất khó bứt ra.

Nhà văn Dương Thu Hương hiện sống tại Paris
Thật
ra con người nói chung là một con vật rất lười suy nghĩ. Thành ra không
phải dễ dàng gì tìm ra chân lý. Hồ Chí Minh từ lâu đã biến thành một
hình nộm bị dùng bởi hai thế lực lịch sử.
Đối với những người
cầm quyền trong nước, ông ta biến thành một ông Thánh, một con người
toàn bích. Không có một nhược điểm nào, xin lỗi, chắc là không có cả đi
vệ sinh và không làm tình. Để trở thành một thành luỹ che chắn cho chế
độ.
Còn đối với những người vượt biên, hay những người là nạn
nhân của chế độ cộng sản, buộc phải rời Tổ quốc ra đi trong một nỗi đau
khổ khôn cùng, trong một lòng thù hận khôn nguôi, thì chỉ có Hồ Chí Minh
là cái đích, cái biểu tượng dễ nhất để mà khạc nhổ, để mà đánh đấm.
Hồ
Chí Minh đối với những người căm thù cộng sản trở thành hố rác để người
ta trút tất cả những sự phẫn nộ, thù hận và sự khinh bỉ vân vân và vân
vân.
Và khi đã có một mục đích như vậy thì không thể nào mà tiếp
cận được chân lý. Bởi vì tất cả những người đã bị điều khiển bởi một
mục đích thì không thể nào có được một cái nhìn khách quan.
'Có chủ thuyết riêng'
Muốn hay không, thì Hồ Chí Minh cũng là người lãnh đạo thành công Cách mạng Tháng 8 và đã xoá bỏ chuỗi ngày dài nô lệ
Dương Thu Hương
Vì
vậy từ lâu nay, dù là người tranh đấu cho dân chủ, nhưng tôi kiên quyết
không bao giờ vào một đảng phái nào. Mặc dù cách đây mấy năm, tôi có
ghi tên vào khối '8406', nói thẳng là tôi ghi tên để cùng đấu tranh với
anh em, nhưng tôi là tôi.
Tôi luôn luôn là người đơn độc và tôi
luôn có chủ thuyết của riêng tôi, tôi không bao giờ phụ thuộc vào bất kỳ
hệ thống ý tưởng của ai khác. Thời anh Chính (Hoàng Minh Chính) còn
sống, tôi rất kính trọng anh Chính, nhưng tôi cũng nói với anh là chúng
ta liên đới để đấu tranh. Tôi không phải là đệ tử của anh ấy.
Thực
ra từ lâu tôi đã nhìn thấy rằng sự đồng lòng nhất trí trong một tập
đoàn đưa đến một cái nhìn mù quáng và nhiều khi xuyên tạc lịch sử. Khi
đã có một mục tiêu, người ta phải giả mạo lịch sử, người ta phải biến
báo tất cả các sự kiện đi để đạt được mục tiêu ấy.
Ví dụ như
trong khối '8406' bây giờ có mục tiêu cương quyết đạp đổ thần tượng Hồ
Chí Minh, phá bỏ huyền thoại, và vì thế tìm đủ mọi cách để có thể hạ bệ
thần tượng Hồ Chí Minh bằng mọi giá.
Còn những người bảo vệ Hồ
Chí Minh thì cũng không phải vì Hồ Chí Minh mà vì họ bảo vệ quyền lợi
của họ. Bởi vì dù sao ông Hồ trong lịch sử vẫn còn để lại một hình ảnh
tốt đẹp trong dân chúng.
'Hình ảnh sáng giá'
Sau
100 năm sống dưới chế độ đô hộ của thực dân Pháp, muốn hay không, thì
Hồ Chí Minh cũng là người lãnh đạo thành công Cách mạng Tháng 8 và đã
xoá bỏ chuỗi ngày dài nô lệ.
Bà Hương cho rằng biểu tượng Hồ Chí Minh bị cả hai phía tận dụng
Người
ta không quên được những cuộc khởi nghĩa bị đàn áp. Bản thân tôi cũng
không quên được những hình ảnh đã từng xem như là Đề Thám và nghĩa quân
các cuộc khởi nghĩa thất bại bị chặt đầu, rồi đầu họ bị cho vào những
chiếc rọ.
Tất cả những hình ảnh đó cắm sâu vào tiềm thức của dân
tộc và vì vậy mà Hồ Chí Minh vẫn là sáng giá để bảo vệ cho một chế độ
mà người ta đã ngán đến tận tai và người ta đã thấy đầy rẫy những tội
lỗi.
Những người làm chính trị là những người có mục đích. Vì
vậy, tôi nói tôi chỉ làm giặc chứ không làm chính trị gia. Vì làm chính
trị gia khó tránh khỏi phải thoả hiệp, trong đó bao gồm sự gian dối và
đạo đức giả...
Tôi không bao giờ lệ thuộc vào bất cứ hệ thống chính trị nào và do đó trong chuyện này, nhà văn tự do hơn chính trị gia nhiều.
Tiểu thuyết hay chính trị
Trong
đoạn tự thoại của nhân vật Chủ tịch ở cuốn tiểu thuyết của tôi, nhân
vật mặc bộ complê trắng ngà chính là lương tâm của ông ta tự vấn. Ông
không phải chỉ là nạn nhân đâu, bản thân ông cũng tham dự một phần của
kẻ đao phủ.
Tôi đã nhắc lại cả nghìn lần rằng tôi không bao giờ tham dự vào bữa tiệc của những người dân chủ khi họ mừng ngày thắng lợi
Dương Thu Hương
Trong
con người ông có một góc hình thành con người tên đao thủ, vì ánh sáng
của quyền lực, ảo vọng của vinh quang v.v... và vai trò của Cha già dân
tộc đã khiến cho ông rơi vào một tình trạng tê liệt và hèn nhát.
Và cái đó chính ông cũng nghiệm thấy là bản thân ông tham dự vào cái chết của vợ ông ấy.
Không
một cuốn sách nào chỉ có một thông điệp không thôi cả, nếu không thì
người ta không nên mất công viết làm gì, nhất là lại tra tấn người đọc
đến gần 800 trang với chỉ một thông điệp không. Đấy là điều thứ nhất,
quy luật chung của văn chương.
Điều thứ hai, người ta hỏi tôi
đây là cuốn sách văn học hay chính trị? Tôi bảo tôi không biết, vì cái
này tuỳ người đọc người ta lựa chọn và định giá. Tôi chỉ cho đây là một
cuốn tiểu thuyết.
Nhưng vì nhân vật là một chính trị gia, nên nó
nhuốm mầu sắc chính trị. Trên con đường tìm kiếm nguyên nhân cái chết
của vợ chồng Lưu Quang Vũ và tìm hiểu lịch sử, tôi đã bắt gặp câu chuyện
này.
Tôi bắt gặp nhân vật vốn là một chính trị gia vĩ đại này,
nhưng đồng thời cũng là một con người khốn khổ. Và tôi mô tả ông ta đúng
như điều tôi nhìn thấy dưới ánh sáng của văn chương, chứ không phải
dưới chủ đích của chính trị.
Ông Vũ Kỳ là thư ký riêng của cố Chủ tịch Hồ Chí Minh
Bởi
tôi đã nhắc lại cả nghìn lần rằng tôi không bao giờ tham dự vào bữa
tiệc của những người dân chủ khi họ mừng ngày thắng lợi. Tôi là người tự
do và đừng hòng ai có thể điều khiến tôi trong bất cứ mục tiêu nào cả.
' Bằng đôi chân của mình'
Đừng
bao giờ kết tội tôi gây khó khăn cho những người viết sau, khi họ muốn
sử dụng những cứ liệu, huyền thoại về nhân vật lịch sử mà tôi đã sử dụng
này. Mỗi người tự đi bằng đôi chân của mình.
Mỗi người phải tự
tìm con đường của mình, phải can đảm đối diện với lịch sử. Và như vậy
phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt. Về bằng chứng ư, bản thân tôi, 20 năm ấy,
nếu không có người em trai tôi, làm sao tôi tiếp cận được nhân vật ấy.
Họ
phải thủ tiêu tôi tức khắc ấy chứ. Bởi vì họ đã bố trí hai lần để kẹp
chết tôi nhưng vì người em tôi cứu tôi, và vì tôi đã viết những bài như
'Thế nào là Chủ nghĩa Xã hội', hay 'Đảng phải biết ơn nhân dân' thay vì
đảng dạy nhân dân biết ơn đảng.
Khi gặp lịch sử về người phụ nữ miền núi này, chính bản thân tôi cũng xúc động
Dương Thu Hương
Tôi
đã phân tích những cái đạo đức giả cũng như những cái corruption - tham
nhũng rất lớn của nhà nước. Những cái đó nhẹ hơn nhiều nếu như họ biết
tôi tìm để viết đích thực về chuyện ông Hồ và hai nhân vật là Lê Duẩn và
Lê Đức Thọ.
Nếu họ biết thì không phải là lần thứ ba hay thứ tư
mà cả lần thứ ba mươi, họ cũng tìm cách để thịt chết tôi. Những thế hệ
sau có con đường của họ. Họ phải đổ mồ hôi để tìm hiểu lịch sử và phải
lao động.
'Xúc động thực sự'
Ông Hồ là
một người đàn ông khoẻ mạnh, khá đẹp trai. Tôi nghĩ điều Xuân Quỳnh
trước đây nói với tôi là nếu Quỳnh gặp ông ấy ngày trước, có thể Quỳnh
cũng phải lòng, cũng có thể là thật.
Vì thế trong cuộc đời của
ông ta không thể nào chỉ có một người phụ nữ được. Cái huyền thoại một
mối tình từ 16 tuổi tới 79 tuổi là ngớ ngẩn, chẳng ai tin vào thời buổi
này.
Ông ta có nhiều người đàn bà trên con đường phiêu dạt của
ông ấy. Nhưng vì ông ấy là người cách mạng, ông ấy không thể sống một
cuộc đời bình thường được.
Bà Hương nhấn mạnh 'Đỉnh cao chói lọi' chỉ là một tiểu thuyết
Nhưng
qua tìm hiểu của tôi, đặc biệt khi tìm hiểu cô Xuân, tôi hiểu rằng đây
là mối tình lớn nhất của ông. Đây cũng là mối tình đau khổ mà người ta
gọi là mối tình định mệnh đối với người đàn ông này.
Và tôi nghĩ
rằng người phụ nữ này cũng là người phụ nữ xấu số. Bà là một người có
đầy đủ các khả năng để trở thành một người đàn bà sung sướng. Vừa có
nhan sắc, vừa có từ tâm, vừa hồn nhiên.
Tóm lại đó là một con
người không hề có một mục đích tăm tối nào trong cuộc đời của mình, thế
mà lại phải chịu một số phận oan nghiệt.
Nói chung, khi gặp lịch sử về người phụ nữ miền núi này, chính bản thân tôi cũng xúc động.
Vũ Kỳ và Trần Độ
Có
thể là có lý khi cho rằng giữa ông Vũ Kỳ và ông Trần Độ có một điểm nào
đó giống nhau. Đó là khi cuối đời họ nhận ra rằng trong con đường mà họ
cho là lý tưởng, có một cái gì đó là một sai lầm lớn.
Nhưng
riêng với ông Trần Độ, những năm cuối đời của ông, ông đã thay đổi hẳn.
Cùng với anh Kiên Giang, tôi đã có nhiều dịp tiếp xúc với anh Trần Độ.
Ông Vũ Kỳ thì tôi không thể gặp được vì tôi mà xán vào ông ấy, thì người ta sẽ giết tôi luôn
Dương Thu Hương
Anh Trần Độ đã đứng hẳn về phe chúng tôi, tôi biết chắc rằng cuối đời sự chuyển hướng của anh là mạnh mẽ và dứt khoát.
Với
ông Vũ Kỳ thì tôi không thể gặp được vì tôi mà xán vào ông ấy, thì
người ta sẽ giết tôi luôn. Nên thay vì tôi, người khác phải tìm cách gặp
và phỏng vấn ông ấy, dĩ nhiên với những hình thức khác nhau chứ không
phải như cách nhà báo BBC phỏng vấn tôi bây giờ.
Vì chuyện ấy sẽ
có thể trở thành một thứ chướng tai gai mắt trong xã hội lúc bấy giờ và
người ta sẽ cho anh đi chơi với hà bá luôn.
Thế nhưng, như tôi
đã nói, nếu không có người em trai tôi thì tôi không thể làm được việc
gì. Vì những sự thật cốt lõi, phải là người em tôi làm. Anh ta đã phỏng
vấn và tìm hiểu các vấn đề vì nếu tôi chường cái mặt tôi ra thì tôi
không còn được sống tới bây giờ.
Với độc giả trẻ
Đừng
hỏi tôi về việc những độc giả trẻ trong tương lai suy nghĩ gì khi đọc
cuốn chuyện của tôi. Cái đó phải hỏi họ. Nhưng tôi có một phương châm là
trong cuộc sống của mình tôi làm hết mình những gì tôi thấy cần phải
làm.

Tôi có một phương châm là trong cuộc sống của mình tôi làm hết mình những gì tôi thấy cần phải làm
Dương Thu Hương
Để
góp phần gì đó cho sự nghiệp phát triển của dân tộc, hoặc là để cho họ
nhìn thấy một chân lý, hoặc là để cho họ tiếp cận được với nền dân chủ,
hoặc là làm được một điều dù bé nhỏ nhưng giúp dân mình thay đổi được số
phận, tôi làm hết mình.
Nhưng mà để rình mò xem cuốn này người
ta có thích không, bao nhiêu người thích, bao nhiêu người ghét, rồi phải
gia giảm chi tiết này, bớt chi tiết kia, thi xin lỗi, ngay với độc giả
Tây vốn là độc giả chính của tôi bây giờ, tôi không tính đến chuyện ấy
đâu.
Bởi vì tôi không phải là người làm hàng, bán hàng mà tôi phải tính tới nhu cầu thương mại.
Sau
gần 800 trang sách, tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc liệu còn điều gì lấn
cấn và chưa hài lòng. Đó là một câu hỏi phức tạp. Nói thực là tôi viết
xong cuốn nào là thôi, là tôi quên luôn, tôi nghĩ sang chuyện khác.
Tôi
không phải là nhà văn chuyên nghiệp như các nhà văn Pháp ở đây. Họ rất
kỹ lưỡng về nghề nghiệp. Họ dò la độc giả, rồi dò la các nhà sách và họ
rất quan tâm tới chủ các nhà xuất bản.
Tôi không làm chuyện đó
và không quan tâm tới chuyện đó. Tôi làm đến đâu hay đến đấy. Tính tôi
từ xưa tới nay là như vậy, tôi tự gọi mình là 'sans foutisme' - bất cần -
là thế.
________________________________________
Anh Ba, Tokyo
Tôi
không biết có dân tộc nào như dân tộc mình không. Có vị nói: "Chính
quyền Việt nam cần gì phải cấm đoán bà trở lại đất nước này, người dân
thường cũng biết phải chào đón bà như thế nào, nếu bà còn đủ gan trở
lại." Những người con của dân tộc này khi bước ra khỏi nhà thường để lại
những tiếng xua đuổi. Ngay cả mấy ca sĩ như Bằng Kiều và Thu Phương
trước đây cũng thế. Không hiểu chúng ta lấy quyền gì mà xua đuổi họ. Cha
ông chúng ta cũng đã dạy, đánh kẻ chạy đi chứ sao nỡ đánh người chạy
lại.
Vậy mà trước khi họ có ý định quay trở lại thì đã đầy những
lời đe dọa. Các bạn thử hỏi lại chính mình liệu các bạn có dành tình
cảm của mình cho dân tộc cho đất nước được như họ. Nếu bạn thực sự quý
trong dân tộc mình thì bạn cũng sẽ hiểu người khác cũng quý trọng nó. Và
bạn sẽ không có ý định lấy đi cái quý báu đó của họ. Nếu bạn là người
sống xa tổ quốc có lẽ bạn sẽ hiểu phần nào nỗi đau của họ khi trước
những lời xua đuổi của dân tộc mình. Dù nó có dành cho mình hay cho
người khác.
Hà Văn
Một chế độ độc đảng luôn
luôn che dấu những góc khuất của lịch sử để phục vụ cho ý đồ chính trị
của nó. Ông Hồ đã đẻ ra đảng Cộng sản Việt Nam thì dĩ nhiên đảng phải
tôn ông ấy thành thánh thần. Chỉ có người kém hiểu biết và bị bưng bít
sự thật mới bị lừa phỉnh mà thôi. Hãy nhìn vào thực trạng xã hội việt
nam hiện nay để mà đánh giá những đảng viên cộng sản VN trong đó có ông
Hồ là người thế nào và để phán xét Dương Thu Hương viết đúng hay sai.
Cảm ơn DTH đã cung cấp những thông tin bổ ích. Chúc chị sống lâu.
C, Hà Nội
Không
riêng bà Hương, bất cứ người tự do nào cũng có chủ thuyết riêng của
mình, nên không cuốn sách nào chỉ mang một thông điệp, giá trị thật sự
của cuốn sách phụ thuộc nhiều ở trình độ tự do tư tưởng của mỗi người
đọc. Vậy khác với Bà, tôi sẽ "tham dự vào bữa tiệc của những người Dân
chủ khi họ mừng ngày thắng lợi", để quan sát, để góp phần kịp thời vạch
mặt chỉ kẻ độc tài, để chúng họ không tước đoạt thành quả xương máu của
Nhân dân, để những người như bà Hương bỏ hẳn đi tâm trạng "chim sợ cành
cong" mà mở rộng hơn nữa sự tự do của mình trong một xã hội Dân sự và
Nhà nước pháp quyền.
Ẩn Danh
Quả thật bà
Dương Thu Hương nói đúng về tiểu thuyết của bà" Khởi sự không có tính
văn chương" Tôi đã đọc một số cuốn tác phẩm của bà. Tôi đã gặp rất nhiều
hình ảnh những người phụ nữ có tính cách mạnh mẽ nhưng số phận lại cô
độc.Và đến giờ tôi có cảm giác những nhân vật đó chính là hiện thân của
bà. Tôi đã tin bà là một người có tài và dũng cảm qua những tác phẩm của
bà.
Nhưng với tác phẩm Đỉnh cao chói lọi tôi nghĩ bã đã sai lầm
khi viết nó. Một tác phảm được viết bởi một người cầm bút với động cơ
trả thù thì liệu tác phẩm ấy có thật sự là một tác phẩm văn học hay
không có mang tính nhân văn hay không. Điều nữa khi bà viết về Hồ Chủ
Tịch nghĩa là bà đang viết về dân tộc Việt Nam vì người đã gắn số phận
của người với số phận của dân tộc này.
Đó là một điều vĩ đại vì
vậy một người đã quen viết về số phận của những con người bình dị khó mà
đủ tài năng và tâm huyết để viết về một con người vĩ đại. Lời cuối cừng
tôi muốn nói với Dương Thu Hương: Bà đã sai lầm khi viết cuốn tiểu
thuyết chỉ có giá trị khơi dâỵ tính tò mò của con người.
Ẩn Danh
Đọc
bài trả lời phỏng vấn của Bà Dương Thu Hương Với BBC mà tôi thấy ghê
quá, bà là một nhà văn thuộc tầng lớp trí thức cơ mà, sao bà lại dùng
những từ ngữ chợ búa như vậy để nhận xét một người khác. Bà không sống ở
Việt Nam bà đang sống tại trung tâm Paris kinh đô của nền văn hoá thế
giới. Bà hằn học ai hằn học cái gì. Hay bà hằn học chính cuộc đời của
Bà? Một người phụ nữ có học sao lại tuôn từ mồm ra những ngôn từ kém văn
hoá như vậy? Tôi nghĩ rằng chỉ có những người có tâm hồn khô cằn như bà
mới chấp nhận bà thôi.
Chính vì vậy bà phải sống cô độc nơi đất khách quê người, muốn thèm ăn một bữa cơm Việt canh cua đồng vời cà pháo mà chẳng có.
Quoc Viet, Hà Nội
Độc
giả cần bà Hương nói rõ hơn về căn cứ để bà viết nên "đỉnh cao chói
lọi". Nếu coi những chứng cứ đó là sự thật thì việc bà dùng ngôn ngữ xấc
xược trong bài phỏng vấn để nói về Hồ Chủ Tịch, cộng với cách trả lời
không dứt khoát nó là tiểu thuyết hay lịch sử, tất cả chứng tỏ một dã
tâm rõ ràng của một tâm hồn bệnh hoạn!
Lịch sử luôn tôn vinh
những con người "vì dân, vì nuớc", không phân biệt họ ở đảng phái, tôn
giáo nào. Dẫu biết "không ai là toàn vẹn" nhưng việc vì mục đích nào đó
mà bôi nhọ lãnh tụ của đảng phái đối lập không phải là một việc làm
thông minh, điều đó cho thấy một tầm nhìn hạn chế. Những người yêu nuớc
thực thụ người ta sẽ hiểu ngay bà là một kẻ tư lợi, một tay sai không
hơn không kém!
Quang, Hà Nội Có hai điều tôi
muốn chia sẻ với mọi người: Thứ nhất lịch sử phải là sự thật, đừng bóp
méo sự thật lịch sử vì lợi ích bản thân cũng như sự thù hằn vị kỉ. Về
điểm này, tôi rất tôn trọng Phùng Quán khi ông viết hồi ký rất trung
thực và chính xác. Thứ hai, có bao giờ ai đó tự hỏi, nếu ngày 7-5-54 ko
có chiến thắng Điện Biên, người VN sẽ đi tới đâu? Nếu các bạn đọc các
phóng sự của Vũ Trọng Phụng, phần nào các bạn cũng tìm được câu trả lời.
Có một điều không thể phủ nhận, độc lập dân tộc là thành quả
của Đảng cs và HCM. Và nếu không có độc lập dân tộc đó, chẳng có nổi bà
DTH ngồi viết cuốn chuyện này. Và giờ này, trên thế giờ chẳng còn cái
tên Vietnam mà chỉ còn cái tên Indochina.
Sự thật
Đảng
và Nhà nước hiện đang ca ngợi chủ tịch Hồ Chí Minh hơi quá mức, tuy
nhiên Chủ tịch Hồ Chí Minh đúng là một nhân vật vĩ đại, có công lớn
trong công cuộc dành độc lập và xây dựng đất nước. Cũng là một con người
nên không thể không có sai lầm. Là một người có chí khí, có trí tuệ lớn
thì nhiều người, trong đó có chị em phụ nữ, ngưỡng mộ là điều đương
nhiên.
Khi phán xét con người lịch sử thì cần phải có chứng cớ
khoa học, có nhân chứng và vật chứng. Tiểu thuyết này không thể coi là
một câu chuyện có thực, vì người viết không phải là người nghiên cứu
lịch sử, viết sách trong tâm trạng thù oán cá nhân. Những sự kiện có
thật mà được xen kẽ với những chi tiết hư cấu của nhà văn chỉ khiến
người ta hiểu nhầm về lịch sử thôi.
Thăng, Hà Nội
Chắc
chị cũng chẳng còn nhớ tới tôi là ai nhưng tôi đã từng được tiếp chuyện
chị cùng Nhà thơ Thu bồn tại quán nhỏ ở LNĐ với bia và nem chua. Tại
thời điểm đó rất buồn là tôi chưa biết nhiều về chị nên không thể tặng
chị rất rất nhiều những tư liệu mà trên đó có dấu tuyệt mật để ngày nay
chị có thể dùng nó để chứng minh cho những gì chị viết. Rất tiếc những
tài liệu đó hiện nay đã không còn và đọc tiểu thuyết của chị tôi cũng
chỉ thấy được một phần sự thật chứ chưa phải tất cả.
Nghiêm túc
mà nói tác phẩm của chị chỉ là tiểu thuyết không hợn không kém không thể
đưa ra làm tài liệu lịch sử được. Đúng như chị nói đã là tiểu thuyết
thì có phóng tác nên nhiều sự kiện không phản ánh đúng sự thật, nhiều sự
thật chưa đi được tới đích của sự thật. Một lần nữa cám ơn chị.
VNN
Ý
kiến của Bà Hương cũng chỉ là ý kiến của 1 cá nhân thôi, bởi Ông Hồ đối
với người dân VN là một người ch vĩ đại, lịch sử đất nước cũng không có
được nhiều người như vậy. Nếu Ông Hồ có những khuyết điểm nhỏ thì đó
cũng là điều bình thường của con người. Là người dân bình thường tôi vô
cùng kính trọng Ông Hồ đã đem văn mình và sự bình đẳng bác ái đến cho
người dân VN. Tuy nhiên Ông Hồ cũng phải chịu nhiều thế lực khác trong
cuộc đời chính trị của ông nên không thể thực hiện được ý tưởng của
mình.
Kim
Là người chống chế độ chuyên chế
này nhưng khi những người dân chủ ăn mừng có lẽ tôi sẽ quay sang bảo vệ
những người cộng sản. Trong bài phỏng vấn này có nhắc tới ông Vũ Kỳ,
nhân vật có thể được xem là nhân chứng của lịch sử. Lâu nay tôi vẫn thắc
mắc về nhân vật này, ông hầu như không viết hồi ký hay để lại bút tích
có liên quan đến ông HCM, không thấy người ta mời ông Vũ Kỳ tham gia các
phong trào về tấm gương hay hoc tập theo HCM...
Có cảm giác như
người ta đang giam lỏng ông cho tới khi ông mang hết chuyện "thâm cung
bí sử" xuống mồ mới thôi. Lịch sử và văn học nước nhà mấy chục năm nay
tối lù mù thì trách sao được điểm văn, sử của học sinh bây giờ rất kém.
Thuy NT, Đà Nẵng
Đọc
và nghe bà Dương Thu Hương mà buồn cho vận nước. Nhìn rộng ra tôi thấy
nước Việt Nam mình lạc hậu kém phát triển nguyên nhân chủ yếu là do
chính bản thân chúng ta: hẹp hòi, ích kỷ, tầm nhìn thiển cận.
Không nêu tên
Sự
thật quả là cần thiết cho nhiều người, nhất là số nhiều sống trong một
xã hội mà thông tin chỉ mang tính một phía thôi. Rất vui khi được biết
thêm về một vấn đề mà tôi chưa hề nghe ai nói. Nhưng độ tin cậy của
thông tin này là điều mà tôi vẫn còn hơi gợn gợn, hoài nghi.
N.D.Vang
Tôi
nghĩ bà Dương Thu Hương chưa đủ trình độ để phán xét một nhân cách lớn
như Cụ Hồ. Tôi không phủ nhận tài năng của bà cũng như không nghĩ rằng
Bác Hồ là người toàn vẹn hết sức như sách báo và lịch sử trong nước ghi
lại. Nhưng theo tôi, ông như vậy đã là quá tuyệt vời và có thể sống mãi
trong lòng dân tộc.
PPT, Việt Nam
Nhà Văn
chỉ nói "với độc giả trẻ" mà quên mấy ông già này rồi. Thực ra tôi rất
lấn cấn về những suy tư, những biểu đạt của Dương Thu Hương. Trong con
người của chị còn những tâm tư tình cảm. Đó là lẽ sống của chị, một Nhà
Văn, và không ai nên trách móc về việc đó, mặc dầu có đồng cảm hay không
với những nhân vật của tác phẩm.
Cái khắc khoải của Nhà Văn có
lẽ là con đường chính trị. Vâng, con đường này không được định nghĩa
"dân chủ" hay "độc tài", mà là "Đất nước và Con người Việt Nam". Tôi
nghĩ chúng ta đề cao những người vì dân vì nước cho dù họ thuộc thành
phần hay đảng phái nào. Và chúng ta chống lại bất kỳ ai, kể cả với những
"lãnh tụ tôn kính" nhất, nếu họ phản dân phản nước.
Cái khác
nhau của các nhóm dân chủ đã được hình thành riêng lẻ trước đây với
phong trào chấn hưng đất nước hiện nay là chỗ đó, mặc dầu có những khác
biệt lịch sử, nhưng tương hỗ thể hiện trong cách gọi chung của dân chúng
là một "công cuộc" hay phong trào công chúng (public movement). Chúng
ta không làm được gì cho đất nước nếu không có mục đích chung, tiếng nói
chung.
Và mục đích của "công cuộc" từ nam chí bắc, trong nước
và hải ngoại, theo tôi phải là đoàn kết mọi người trong cùng một mục
tiêu phục hồi niềm tự hào ông cha ngày trước vốn đã bị chiến tranh tàn
phá, ngoại bang xâm lấn và bị đảng cộng sản hiện nay cản trở.
Lang Tu, Melbourne
Hình
như sự mù quáng , sùng bái, thiếu logic làm con người nhìn vấn đề cực
đoan. Cực đoan, sùng bái là nguyên nhân chính làm xã hội, nền chính trị
và con người Việt Nam thụt lùi so với các quốc gia khác.
Conan, Sài Gòn
Tôi
rất thích nhà văn DTH ở tính thẳng thắng của bà bởi vì ở xã hội Việt
Nam bây giờ tìm được một người dám nói thẳng, nói thật thì quá khó. Tôi
cũng đồng ý với bà Dương Thu Hương là Đảng Cộng sản VN ca ngợi ông Hồ là
nhằm mục đích củng cố sự cai trị của họ chứ không phải vì họ biết ơn
ông
No comments:
Post a Comment