BÍ MẬT THÀNH ĐÔ
HUỲNH TÂM
Tiến trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990 (Kỳ 4)
Huỳnh Tâm (Danlambao) - Hội nghị bí mật Thành Đô 1990, Nguyễn Văn Linh tuyên bố "3 quyết tâm" khẳng định trung thành với "Bác" đảng Trung Cộng:
- Chúng tôi quyết tâm sửa chữa những sai lầm về chính sách trong quá khứ và không bao giờ quên ơn đảng BCT/TW Trung Cộng. "Ngã
môn hữu quyết tâm giải quyết quá khứ chánh sách đích thất ngộ hòa vĩnh
viễn bất hội vong kí cảm tạ song phương BCT/ Trung quốc trung bộ".
- Chúng tôi quyết tâm khôi phục lại chính sách Trung Cộng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, năm xưa đã quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai đảng và
hai nước. "Ngã môn quyết tâm khôi phục hồ chí minh chủ tịch đích
trung quốc quốc gia chánh sách, tại quá khứ đích nhất niên lí nhất trực
thị lưỡng đảng, lưỡng quốc chi gian đích truyền thống hữu hảo quan hệ".
- Việt Nam quyết tâm dựa vào quan hệ tốt đẹp với Trung Cộng là điểm khởi
đầu cơ bản của thời kỳ này, xem Hoa Kỳ là kẻ thù, đối đầu trực tiếp với
Trung Cộng Quốc. "cơ vu dữ trung quốc quốc gia trọng điểm cơ sở
lương hảo quan hệ việt xác định đích xuất phát điểm thị giá nhất thì kì,
khán đáo mĩ quốc thị vi địch nhân, dữ trung quốc trực tiếp đối kháng".
"Kỷ yếu" ấn định đàm phán biên giới Trung-Việt
Sau khi Bắc Kính lặp đi lặp lại, phải tiến hành nhanh thỏa thuận về dự
thảo văn bản "Thỏa thuận nguyên tắc cơ bản về việc giải quyết vấn đề
biên giới của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam". (Quan vu giải quyết trung hoa nhân dân cộng hòa quốc
hòa Việt Nam xã hội chủ nghĩa cộng hòa quốc biên giới lĩnh thổ vấn đề
đích cơ bổn nguyên tắc hiệp nghị) để rồi còn ký kết những bản "tóm tắt" đàm phán khác. [1]
Ngày 18 tháng 10 năm 1993, Trưởng phái đoàn chính phủ Trung Quốc Tiền Kỳ
Tham đã thực hiện một chuyến đi đặc biệt đến Hà Nội, với người đứng đầu
phái đoàn chính phủ Việt Nam Vũ Khoan, chuẩn bị định ngày ký kết "Thỏa
thuận nguyên tắc cơ bản về việc giải quyết vấn đề biên giới nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam".
Trong "Thỏa thuận các nguyên tắc cơ bản" (cơ bổn nguyên tắc hiệp nghị) hai bên khẳng định trên cơ sở "chung sống tồn tại" (hòa bình cộng xử),
thông qua tham vấn giữa hai nước, bao gồm Biển Đông và biên giới đất
liền, cả hai đều thực tế thiết lập chủ quyền biên giới mới của hai quốc
gia Trung-Việt. "Trọng tâm hiện hành về giải quyết vấn đề biên giới đất
liền và Vịnh Bắc Bộ. Đồng thời, tiếp tục đàm phán về các vấn đề hàng hải
để đạt được một giải pháp cơ bản và lâu dài", (mục tiền tập trung
giải quyết lục địa biên giới hòa bắc bộ loan vấn đề, dữ thử đồng thì, kế
tục tựu hải thượng đích vấn đề tiến hành đàm phán, dĩ tiện thủ đắc nhất
hạng cơ bổn hòa trường cửu đích giải quyết bạn pháp). Về vấn đề biên giới đất liền cần có "các nguyên tắc cơ bản" (cơ bổn nguyên tắc hiệp nghị)
còn quy định rằng "Thỏa thuận cả hai bên đồng ý trên cơ sở một góc cạnh
cung về Hòa ước Pháp-Thanh ngày 26 tháng 6 năm 1887", tiếp tục thảo
luận Hòa ước Pháp-Thanh ngày 20 tháng 6 năm 1895". Sau đó thảo luận vòng
tròn chương trình cô đọng hơn (song phương đồng ý dĩ trung pháp 1887 niên 6 nguyệt 26 nhật thiêm đính đích "tục nghị giới vụ chuyên điều"). Hòa ước ngày 20 tháng 6 năm 1895 (tục nghị giới vụ chuyên điều phụ chương).
Nếu công nhận Hòa ước Pháp-Thanh hay phủ nhận cũng nhắm vào mục đích
phát triển cho phù hợp hiện tình chủ quyền và phân định biên giới theo
quy định "Kỷ yếu 1990", nó như một tài liệu xây dựng đàm phán chủ quyền
của hai quốc gia. Những bản đồ biên giới đất liền được vẽ theo quy định
của (pháp luật?) cho phù hợp những điểm đánh dấu ranh giới, như là cơ sở
của tất cả các đường biên giới đã được phê duyệt đối với Trung
Quốc-Việt Nam", và giải quyết tranh chấp những vấn đề khu vực. Ân định
cuối cùng hai bên ký hiệp ước biên giới. ("1990 niên luận văn tập"
tha thị giá dạng nhất cá kết cấu tài liệu, biên giới địa đồ tương án
chiếu giới bi đích pháp luật chế định, nhân vi sở hữu đích biên giới đô
bị phê chuẩn vi y cư Trung quốc - Việt Nam). [2]
Hai bên lấy quyết định rằng: "Hai bên nhất trí thi hành pháp luật quốc
tế cho phù hợp với luật biển thông lệ của quốc tế, thông qua các cuộc
đàm phán phân chia Vịnh Bắc Bộ. "Để kết thúc, cả hai bên cần thực hiện
những nguyên tắc công bằng và xem xét tất cả các trường hợp có liên quan
Vịnh Bắc Bộ, bảo đảm giải pháp công bằng". [3]
Hai bên cũng đồng ý thành lập Nhóm công tác chung trên thực địa biên
giới đất liền, theo quy định thực tế phân biệt lập hồ sơ, bản đồ, khảo
sát thực địa, so sánh bản đồ với thực địa v.v... và Nhóm chuyên viên đàm
phán, sau khi hai Nhóm thực hiện thành công một đoạn công tác, trình
lên đoàn đại biểu Chính phủ xem xét và hướng dẫn, mọi phân chia do hai
Nhóm làm việc chung từ biên giới đất liền đến Vịnh Bắc Bộ, luôn luôn
thảo luận những điểm tranh chấp giữa hai nước để giải quyết vấn đề, cần
thiết việc soạn thảo hiệp ước biên giới và các thỏa thuận phân chia Vịnh
Bắc Bộ, lập hồ sơ đầy đủ sau khi ký thay mặt Chính phủ. "Những nguyên
tắc cơ bản của thỏa thuận", (cơ bổn nguyên tắc hiệp nghị). Đối với việc giải quyết cuối cùng của biên giới giữa hai nước phải đặt nền tảng pháp lý vững chắc.
Ngày 07 tháng 11 năm 1991, Tổng Bí thư
Giang Trạch Dân (江泽民), Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng (李鹏) và Tổng Bí thư
Đỗ Mười (杜梅), Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng của Việt Nam Võ Văn Kiệt (在北京)
tham dự buổi lễ giao dịch "điếu ngư thái quốc tân quán"
(Diaoyutai State Guesthouse) tại Bắc Kinh Trung Quốc. Chính phủ Việt Nam
đã ký kết "Hiệp định biên giới tạm thời". Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Tiền Kỳ Tham hội đàm với Vũ Khoan (武宽) để thảo luận về các cuộc đàm phán
biên giới và các vấn đề quan hệ song phương. Ông ta cũng đã gặp Bộ
trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm (阮孟琴). Đạt được những đồng
thuận quan trọng trong đàm phán giữa hai Chính phủ rất cụ thể:
- Thứ nhất, đàm phán giải quyết biên giới đất liền, Vịnh Bắc Bộ và vấn
đề phân giới cắm mốc. Trong tinh thần khó khăn lúc đầu đến hôm nay Việt
Nam cho trôi qua, quá dễ dàng chấp nhận mọi chủ động đề nghị từ phía
Trung Cộng và xem thường chủ quyền quốc gia.
- Thứ hai, trong quá trình giải quyết, Việt Nam thiếu năng động không có
dấu hiệu nào nỗ lực vì chủ quyền, trong khi đó phía Trung Cộng cố gắng
duy trì bình tĩnh, tránh tối đa một số điều khó chịu bởi không lấy được
trọn vẹn ý theo bản đồ biên giới đã định, Trung Cộng chủ động ngoại giao
mềm (hành sử theo luật giang hồ thay cho súng đạn, mua chuộc trao đổi
quyền lợi sai khiến thành phần có trách nhiệm đàm phán) tránh được mọi
tranh chấp biên giới đất liền lẫn Biển Đông.
Ngày 30 tháng 11 năm 1992, Thủ tướng
Trung Quốc Lý Bằng chính thức thăm thiện chí Việt Nam. Đây là việc bất
bình thường quan hệ song phương, các nhà lãnh đạo Trung Quốc lần đầu
tiên đến thăm Việt Nam sau khi chiến tranh biên giới 17-2-1979 và 1984.
Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt và Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng tổ chức
các cuộc đàm phán cấp Chính phủ. Lý Bằng lấy quyết định thông cáo chung,
Võ Văn Kiệt thực hiện: Nay chính thức hai Chính phủ Trung Quốc-Việt Nam
dựa trên cơ sở "Năm nguyên tắc" (hòa bình, thân thiện, ổn định, công
bằng và hợp lý trật tự quốc tế mới).[4]
Hai bên đã quyết tâm và nhất trí bắt đầu tiến hành đàm phán càng sớm
càng tốt theo quy định của Trung Quốc, những cấp Chính quyền thi hành
đúng quy tắc định mức và thừa nhận luật pháp quốc tế, việc giải quyết ưu
tiên về lãnh thổ và lãnh hải những vấn đề gây tranh cãi không còn mang
quyết định đàm phán, hai bên không được thực hiện tự lập riêng biên giới
hay hành động đưa đến phức tạp tranh chấp. Lý Bằng thành lập công thức
On/Off cho phép đèn xanh Võ Văn Kiệt theo tiêu chuẩn (Năm nguyên tắc)
bước vào trò chơi nhượng lãnh thổ, lãnh hải vừa mới ra đời trong hoàn
cảnh bi đát nhất tại thủ đô Hà Nội Việt Nam. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh
Tâm.
7. Cơ chế đàm phán bán biên giới Việt Nam
Trong "Kỷ yếu", qui định soạn thảo cơ chế đàm phán theo cấp Chính phủ,
thành phần đại biểu của hai bên tương ứng, các cuộc đàm phán được tổ
chức luân phiên tại hai nước. Trưởng phái đoàn của cả hai bên luân phiên
chủ trì đàm phán. Cơ chế đàm phán cấp Chính phủ, chủ yếu thực hiện liên
quan đến biên giới lãnh thổ và lãnh hải, nhiệm vụ soạn thảo nghị sự cho
những cuộc đàm phán chính thức của Chính phủ, và hướng dẫn công tác cho
hai nhóm chuyên gia để xem xét và xác nhận kết quả sau những cuộc đàm
phán, hai bên sinh hoạt chung trong Nhóm công tác và các Nhóm chuyên
gia.
Ngày 30 tháng 12 năm 1999. Tiền Kỳ Tham và Nguyễn Mạnh Cầm chính thức ký
vào "Hiệp ước biên giới đất liền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam". Sau đó, ấn định vào ngày 25 tháng 12 năm
2000 ký "Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam. Hợp tác lãnh hải vùng Vịnh Bắc Bộ, và vùng đặc quyền kinh tế được
thỏa thuận trên phân định ranh giới thềm lục địa". Cơ chế này đã được kế
thừa theo ý của "Bác" đã ba lần ký liên tục thỏa thuận "Hiệp ước Vạn
Lịch nhượng hải và Vịnh Bắc Bộ" (Hiệp ước 1000 năm) của những năm 1957,
năm 1961 và 1963, nhượng lãnh hải cho Trung Quốc, "Bác" thành công vĩ
đại, cho đến nay toàn dân Việt Nam hầu hết bị ám lệnh che khuất không
biết sự kiện này! Do đó "Bác" được nhân dân Việt Nam công nhận thánh
nhân và "Cha già dân tộc" người sáng lập của chủ nghĩa xã hội.
Trung Quốc chủ động thiết lập mức độ 1: Khái quát theo cơ chế đàm phán
cấp Chính phủ về biên giới đất liền, liên quan với Nhóm phân chia Vịnh
Bắc Bộ, và phần cơ chế đàm phán của các Nhóm công tác và các Nhóm chuyên
gia. Mức độ 2: Khởi động tiến hành đàm phán hàng hải. Hai Nhóm công tác
và Nhóm chuyên gia là một phần của các đoàn đại biểu Chính phủ của hai
nước. Mức độ 3: Phân chia biên giới đất liền do các Nhóm làm việc chung
tại miền Bắc và Vịnh Bắc Bộ, Nhóm chuyên gia được thành lập hổ trợ cho
các Nhóm công tác, bao gồm biên giới đất liền, các vùng đất liền tại
biên giới, mỗi Nhóm lập bản đồ theo hướng dẫn của các chuyên gia kỹ
thuật, các tập đoàn chuyên gia thiết lập bản đồ điều chỉnh Vịnh Bắc Bộ.
Ngày 19 tháng 10 năm 1993, Trưởng phái
đoàn Trung Quốc, Thứ trưởng Ngoại giao Đường Gia Triền và Trưởng phái
đoàn chính phủ, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, Thứ trưởng Vũ Khoan tại
Hà Nội, Việt Nam đã ký Hiệp ước "Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, về việc giải quyết biên giới theo nguyên tắc
cơ bản của thỏa thuận", vấn đề giải quyết biên giới lãnh thổ và lãnh
hải giữa hai nước đặt trên nền móng công bằng và hợp lý, để củng cố và
phát triển tình hữu nghị láng giềng tốt và hợp tác cùng có lợi giữa hai
nước, ý nghĩa này rất quan trọng bởi chính phủ Trung Quốc chủ động đấy
Việt Nam đi đến ý muốn của mình. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Cuối cùng đã có kết quả của các cuộc đàm phán biên giới đất liền
Từ những ngày 22 tháng 2 năm 1994 đến ngày 22-ngày 25 tháng 3.
Trung-Việt phân chia biên giới đất liền, hai Nhóm công các chung miền
Bắc và Vịnh Bắc Bộ, tổ chức vòng đàm phán đầu tiên tại Hà Nội Việt Nam.
Kể từ đó, Trung-Việt đàm phán biên giới đất liền bước vào giai đoạn giải
quyết cụ thể các vấn đề biên giới.
Việt Nam thường thực hiện phân định biên giới đất liền theo cảm tính đơn
giản như đã được phân định theo hiệp ước cơ sở? (VN dâng hiến biên
giới). Trung Quốc vẫn chưa hài lòng thường cho rằng những nguồn thông
tin về văn bản có con số không được ước tính đúng mức, còn thiếu sót.
Dẫn đến một số khác biệt giữa hai nước trên các đường biên giới sẽ có
tranh cãi chưa phải lúc kết quả.
Trong thực tế nó phản ánh những sự xung đột và tranh chấp quyền lợi ích
giữa hai quốc gia, họ chưa bao giờ nghĩ đến liên quan đời sống của nhân
dân biên giới. Tại biên giới có những làng dân cư sinh sống xem mảnh đất
nhỏ một khiêm tốn tài sản, tự cho là đất hoang khai phá làm của riêng,
thường là nguồn gốc khẩu phần sống của một hộ gia đình.
Lộ trình đàm phán trong nội địa biên giới đất liền của Việt Nam đang dẫn
đến vòng hai đàm phán, hai bên thông qua việc trao đổi đất liền tại
ranh giới, căn cứ trên đường phân định của bản đồ, trái lại Trung Quốc
không xác nhận khu vực tổng số 289, cho rằng chưa phù hợp theo đường
biên giới, theo bao phủ diện tích khoảng 233 km², Trung Quốc khiếu nại
vì lý do kỹ thuật vẽ bản đồ tổng cộng có 125 km² trong khu vực liên quan
đến mâu thuẫn, chênh lệch khoảng 6 km², hai bên tranh chấp trong khu
vực 164 km². Liên quan đến tổng diện tích 227 km². Hầu hết các khu vực
tranh chấp biên giới lợi ích thực sự, nó rất khó khăn cho việc thương
lượng và giải quyết bởi vì khu vực này nằm sâu trong lãnh thổ của Việt
Nam.
Tháng 7 năm 1997, Tổng Bí thư Đỗ Mười
đến Trung Quốc, Giang Trạch Dân đưa ra những yêu cầu đối thoại về biên
giới và đề nghị tích cực phấn đấu cho năm 2000. Đỗ Mười vì "đảng sống
nước tan" đồng ý ký "Hiệp ước biên giới đất liền". Tài liệu ảnh lưu:
Huỳnh Tâm.
Nguyễn Mạnh Cầm tuyên bố ba điều:
- Trong đường biên giới đối với tiến trình hòa giải, chúng tôi thực hiện ba đề nghị cho phía Việt Nam.
Đầu tiên, Pháp-Thanh đã xác nhận về sự phát triển theo quy định và phù
hợp riêng của thời ấy, nay khoanh định lại những văn bản mới, vẽ lại bản
đồ, cho phù hợp xây dựng, và theo quy định của pháp luật dựa trên cơ sở
"Kỷ yếu Thành Đô 1990" đánh dấu lại ranh giới, cho tất cả đối với đường
biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Thứ hai, sau khi kiểm tra chéo vẫn không thể thống nhất về đường biên
giới và vị trí đánh dấu ranh giới, nay đã nhận ra rất nhiều sai sự thật,
hai bên sẽ cùng nhau tiến hành điều tra thực địa, xem xét sự tồn tại
của một loạt các tình huống trong khu vực, phù hợp với tinh thần hiểu
biết lẫn nhau và vùng đất định cư của dân. Hiệp thương hữu nghị, tìm
kiếm giải pháp công bằng và hợp lý.
Thứ ba, sau khi đường biên giới đã được phê duyệt, khu vực biên giới
thuộc thẩm quyền nhiều hơn bên (TQ), bên kia sẽ được trả lại một số lĩnh
vực vô điều kiện theo nguyên tắc, (nói mà không trả lại). Quản lý biên
giới để tạo thuận lợi cho sự chấp nhận ra đi (đất bị mất), bởi hai bên
thông qua tham vấn thân thiện, hiểu biết lẫn nhau, là tinh thần công
bằng và hợp lý điều chỉnh thích hợp. Kể từ đó, Nhóm làm việc chung phân
chia biên giới đất liền đã dành hơn hai năm, kiểm tra 164 km², về phía
đường biên giới trong khu vực tranh chấp.
Tháng 2 năm 1999, Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam bổ nhiệm Tổng bí thư
Lê Khả Phiêu và ông ta đến Trung Quốc báo cáo thành tích của đảng
"Bác". Lê Khả Phiêu trình báo để Chủ tịch Giang Trạch Dân hiểu tình hình
Việt Nam:
− BCT/TW Đảng Cộng sản Việt Nam xác định, từ nay thực hiện các nguyên
tắc "16 ký tự" cho sự phát triển quan hệ song phương Trung Quốc-Việt
Nam, cụ thể là "ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng tốt và
hợp tác toàn diện".
Trên lưng của Lê Khả Phiêu có dấu ấn 16
ký tự, "ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng tốt và hợp tác
toàn diện". (trường kì ổn định, diện hướng vị lai, mục lân hữu hảo,
toàn diện hợp tác) đánh dấu bước ngoặc thời đại nô lệ. Tài liệu ảnh lưu:
Huỳnh Tâm. [5]
Giữa hai nước thiết lập quan hệ trong khuôn khổ phát triển của thế kỷ 21.
Cả hai bên đã đồng ý rằng giải quyết sớm vấn đề biên giới giữa hai nước
quá phù hợp với quyền lợi ích trên căn bản và nguyện vọng chung của nhân
dân hai nước. Hai bên quyết tâm đẩy nhanh quá trình đàm phán, nâng cao
hiệu quả công tác đảng, như đã ký kết vào năm 1999, "Hiệp ước biên giới
đất liền", việc xây dựng đường biên giới chung giữa hai nước đã trở
thành biên giới hòa bình, thân thiện và ổn định.
Hai bên cũng giải quyết đất liền khu vực định cư, quan trọng vấn đề biên
giới sẽ đạt được sự đồng thuận và tôn trọng ranh giới giữa các điều
kiện hai nước cư trú dài hạn, sản xuất và đời sống, không phải vì việc
phân định biên giới giữa hai nước gây ra một cú sốc lớn.
8. Trung Cộng lưu hồ sơ chính trị của "Bác" về động lực "bán nước còn đảng"
Có hai sự đồng thuận Trung Cộng-Việt Cộng đạt được trên cơ sở đàm phán
biên giới đất liền do Trung Cộng cung cấp một hồ sơ chính trị của Hồ Chí
Minh, làm động lực mạnh mẽ thúc đẩy đảng Cộng sản Việt Nam im lặng và
chấp nhận quyết tâm đàm phán càng sớm càng tốt.
Theo sự nhất trí của hai nhà lãnh đạo, Tiền Kỳ Tham và Nguyễn Mạnh Cầm,
cố gắng thúc đẩy phía Việt Nam xác định thái độ thực dụng để thông qua
các cuộc đàm phán với phía Trung Quốc nhằm giải quyết biên giới đất đai
trong khu vực tranh chấp, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến quyền lợi
ích sống còn tại biên giới.
Tháng 5 năm 1999, một lần nữa Tiền Kỳ Tham đe dọa sẽ hạ đàm phán biên
giới không thông qua chính phủ Việt Nam, ông đã gửi thư tới Phó Thủ
tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm. Trong nội dung lá thư của
Tiền Kỳ Tham, bày tỏ rằng phía Việt Nam phải thực sự nhất trí, hy vọng
các nhà lãnh đạo hàng đầu Việt Nam hãy nhìn tình hình chung, tiến hành
quyền lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, mong rằng chân thành thực
dụng và thân thiện phản ánh đầy đủ, đưa khu vực tranh chấp còn lại phải
vào giải pháp biên giới giữa hai nước giải quyết đúng cách, cả trên
đường địa giới cho tất cả các khu vực tranh chấp để đạt được thỏa thuận,
các nhà lãnh đạo của cả hai nước đảm bảo rằng trong khi kết thúc thời
hạn quy định đàm phán biên giới đất liền, cho tiến hành nhanh việc ký
kết giữa Trung-Việt "Hiệp ước biên giới đất liền". Một khi hiệp ước cắm
cột mốc đã thành hình sẽ thấy Việt Nam đứng trước nguy cơ bất lợi mất
nhiều đất liền tại biên giới, đối với "Hòa ước Pháp-Thanh ngày 26 tháng 6
năm 1887" thiết lập một ranh giới cắm 240 cột mốc và 24 huyện đánh dấu
phân định biên giới Trung-Việt. Còn hiện tại trên hồ sơ cột mốc của
"Hiệp ước Trung Cộng-Việt Cộng 1999" sơ khởi đã có đến 1120 cột mốc,
trong những ngày tháng tiếp theo số cột mốc còn nhiều khả năng tăng lên,
mỗi bước tiến của một cột mốc Trung Quốc tất nhiên đất liền của Việt
Nam teo mạnh.
Tiền Kỳ Tham còn đề nghị thêm. Hai bên chấp nhận lịch sử khu vực không
gây tranh cãi, nên khẳng định một cách thực tế, không làm tăng sự khác
biệt giữa hai nước không nên thay đổi hiệp định trước đó của chính phủ
đã công nhận đường biên giới; đối với khu vực tranh chấp, theo đúng thỏa
thuận đã quy định của pháp luật mốc giới và tuân thủ các số liệu quy
định, để xác định đường biên giới; liên quan đến các khu dân cư, theo
đúng với sự đồng thuận quan trọng đã đạt được từ các nhà lãnh đạo của cả
hai nước, phải đồng tôn trọng, không vì phân định biên giới mà gây ra
sốc cho nhân dân, tạo điều kiện mọi mặt như sinh cư và sản xuất của
thường dân phải được bảo đảm sống đời vĩnh cửu tại biên giới.
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm nhanh chóng trả
lời. Phía Việt Nam giải quyết đất liền biên giới, và tôi đồng ý thúc đẩy
đàm phán biên giới đất liền càng sớm càng tốt.
Nguyễn Mạnh Cầm đề nghị rằng hai bên cần phải dựa trên tinh thần hiểu
biết và hỗ trợ lẫn nhau, trong việc xem xét đầy đủ các yếu tố khác nhau
và quyền lợi hợp pháp của tất cả các bên và chủ quyền của mỗi nước, quá
trình lịch sử, địa hình, nhu cầu thẩm quyền, cuộc sống biên giới và cơ
sở bảo vệ cho tương lai của nhân dân được ổn định trong khu vực biên
giới, nhanh chóng thu hẹp sự khác biệt, để tìm kiếm một giải pháp để hai
bên đồng chấp nhận, theo sự nhất trí của cả hai bên Việt Nam-Trung
Quốc.
Tiền Kỳ Tham chủ động hướng dẫn các nhà đàm phán Việt Nam, ông kêu gọi
trong các cuộc đàm phán phải tìm kiếm sự thật thông qua những sự kiện,
giải thích đầy đủ cơ sở pháp lý, tìm kiếm một giải pháp công bằng và hợp
lý cho đôi bên.
Ngày 25 tháng 7 năm 1999. Tiền Kỳ Tham tham dự cuộc họp ASEAN và APEC
(APEC), ông đã gặp hai lần với Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Bộ
trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm. Thảo luận về các vấn đề khu vực và
quốc tế, ông nắm bắt cơ hội này làm một số ngoại giao đẩy Việt Nam tiến
hành đàm phán biên giới.
Ngày 11 tháng 9, Tiền Kỳ Tham gặp Nguyễn Mạnh Cầm đề xuất giải quyết các
vấn đề của khu vực tranh chấp phải được thực tế, Việt Nam xem xét tích
cực các đề nghị phản ánh quyền lợi của cả hai quốc gia được cân đối và
những giải pháp tổng thể, hai bên có thể đạt được một sự hiểu biết về
điều căn bản này, hướng dẫn Nhóm công tác biên giới đất liền làm việc.
Tiền Kỳ Tham hy vọng các nhà lãnh đạo phía Việt Nam sẽ thực hiện nghiêm
túc đàm phán để đồng thuận giữa hai bên giải quyết khu định cư.
Tiền Kỳ Tham giới thiệu sự nghiệp của Nguyễn Mạnh Cầm. Nguyễn Mạnh Cầm
sinh ra vào năm 1929 tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Việt Nam, trong
những năm 1950 ông học tiếng Nga tại Học viện Nga ngữ, và Học viện Chính
trị Hành chánh tại Bắc Kinh, cũng là một gián điệp lỗi lạc của Trung
Quốc đã từng làm đại sứ ở Hungary, Đức, Liên Xô, là một nhà ngoại giao
cao cấp quen thuộc với các cuộc đàm phán biên giới. Nguyễn Mạnh Cầm còn
báo cáo cho Tiền Kỳ Tham biết về nội tình của phía Việt Nam nhằm để
Trung Quốc hiểu được điểm yếu của từng người, ông sẵn sàng chấp nhận nỗ
lực lớn hơn để tìm một giải pháp cho vấn đề biên giới.
Trong ủy ban đàm phán Trung Quốc-Việt Nam có ba cấp độ: Trưởng phái đoàn
Chính phủ cấp Bộ trưởng Ngoại giao. Nhóm công tác chung, và Nhóm chuyên
gia đàm phán. Việt Nam đề nghị vào ngày 20-28 tháng 10 năm 1999, Trưởng
phái đoàn của hai Chính phủ gặp nhau tại Bắc Kinh. Đề nghị này được
phía Trung Quốc chấp nhận vì thấy thuận lợi cho cả hai về tầm nhìn chung
giải quyết cân bằng gói lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam.
Kể từ đó, trong các cuộc đàm phán của Trung Quốc-Việt Nam bao thành một
gói hàng giải pháp lãnh hải, lãnh thổ Việt Nam, bao gồm tất cả các vấn
đề nhạy cảm và khó khăn lâu nay tồn đọng chưa tính sổ, do đó khi đàm
phán đạt được một thỏa thuận sơ bộ biên giới đất liền được xem là một
trong những bước đột phá của Trung-Việt. Sau khi đàm phán khó khăn hơn
một tháng, hai bên tranh chấp quá lâu khu vực biên giới, cuối cùng thỏa
thuận đầy đủ như ý Trung Quốc. Kể từ đó, hai bên tiến hành đàm phán soạn
thảo hiệp ước, đặt tất cả khả năng của mình vào hồ sơ phổ quát liên
quan đến kết quả của các cuộc đàm phán và soạn thảo hiệp ước biên giới
đất liền Trung-Việt.
Những chuyên viên của hai bên hợp tác đắc lực, đàm phán trong vòng 20
ngày và đêm, thành hình dự thảo hiệp ước cho tất cả các điều khoản và
thành tựu trọn vẹn văn bản điều ước quốc tế chuẩn bị tiến hành vẽ bản
đồ, sau đó cho xuất bản về "Hiệp định biên giới đất liền và đường ranh
giới Trung-Việt".
Trước khi ký kết hiệp ước chính thức, Trung Quốc-Việt Nam tổ chức lễ ký
tắt hiệp ước. Trưởng phái đoàn cấp Chính phủ cả hai bên đồng thỏa thuận
mỗi văn bản và bản đồ cần được ký tên của mỗi bên, chữ ký đã lưu vào văn
bản của hiệp ước, tạo thành hồ sơ chứng nhận. Do số lượng lớn, hai bên
đồng ký tên trong một giờ, ngần ấy hồ sơ văn bản và bản đồ hiệp ước.
Ngày 30 tháng 12 năm 1999. Lịch sử biên
giới Việt Nam không còn gắn liền với những mảnh đất của quê hương, vì
nguyên do bất lực của Cộng sản để mất những làng, xã tại biên giới, nay
chính thức chia lìa tổ quốc. Ngày ghi nhận của lịch sử này, nó đang ở
điểm cuối của một ngày đi qua thế kỷ 20, bước vào điểm khởi đầu của ngày
mai thế kỷ 21. Đó là ngày Trung Quốc-Việt Nam đồng tham gia buổi lễ ký
kết tại Hà Nội "Hiệp ước biên giới đất liền Việt-Trung", đã kéo dài 18
năm, đánh dấu sự kết thúc chiến tranh. Cuộc cắm cột mốc biên giới đất
liền đang thực hiện bước thứ hai. Nhưng vẫn còn nhiều thử thách lịch sử
dân tộc Việt Nam nếu không biết biến cải tự thoát xát xa Trung. Đối với
Việt Nam, từ đây sẽ nẩy sinh quá nhiều tác động quan trọng và đang đứng
trước ngưỡng cửa mất nước. Và ngày 06 tháng 7 năm 2000, hai bên trao đổi
phê chuẩn hiệp ước, bắt đầu có hiệu lực. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Trung Quốc-Việt Nam phân định Vịnh Bắc Bộ
Buổi lễ ký kết được tổ chức vào tối ngày 30 tháng 12 năm 1999, tại Trung
tâm Hội nghị Quốc tế Hà Nội Việt Nam. Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc
Tiền Kỳ Tham và Phó Thủ tướng Chính phủ Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam
Nguyễn Mạnh Cầm đồng ký "Hiệp ước biên giới đất liền Trung-Việt". Tại
buổi lễ ký kết, Tiền Kỳ Tham thực hiện một bài phát biểu ngắn: "Hiệp ước
biên giới đất liền Trung-Việt" đã được chính thức ký kết, đánh dấu hai
bên hòa bình, thân thiện và ổn định đất liền biên giới vào thế kỷ 21,
không chỉ sẽ trực tiếp mang lại lợi ích cho người dân các tỉnh biên
giới, mà còn thúc đẩy hai bên quan hệ nhà nước và thúc đẩy hợp tác toàn
diện giữa hai nước trong các lĩnh vực khác nhau, thúc đẩy hòa bình và ổn
định khu vực có ý nghĩa rất lớn.
Ngày 29 tháng 4 năm 2000, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Nhân dân Trung Quốc
khóa 9, Đại hội thứ 10 thông qua nghị quyết phê duyệt "Hiệp ước biên
giới đất liền Trung-Việt"; cùng năm vào tháng 9, Việt Nam mở Đại hội lần
thứ X cũng theo quyết định phê duyệt điều ước quốc tế này.
Ngày 06 tháng 7 năm 2000, Trung Quốc và Việt Nam tổ chức buổi lễ phê
chuẩn "Hiệp ước biên giới đất liền Trung-Việt" tại Bắc Kinh. Chính thức
công bố hiệu lực 1000 theo lời nguyện của "Bác" tại hội nghị Bắc Kinh
ngày 07 tháng 7 năm 1955.
Tháng 11 năm 2000, Trung Quốc và Việt Nam thừa nhận phù hợp với "Hiệp
ước biên giới đất liền Trung-Việt", và trong hai cuộc đàm phán biên giới
hai phái đoàn cấp cao Chính phủ thành lập một ủy ban phân định ranh
giới chung. Đến cuối năm 2008, hoàn thành tất cả các công việc phân giới
cắm cột mốc và hoàn thành lĩnh vực xây dựng. Dự trù của hai bên sẽ trải
qua cắm mốc 8 năm, mới kết thúc ngày cắm cột mốc.
Việt Nam-Trung Quốc bắt đầu mở những cuộc đàm phán, thương lượng hiệp
ước hoặc thỏa thuận biên giới lãnh hải Vịnh Bắc Bộ, và đàm phán phân
định ranh giới cùng một lúc. Nhưng cuộc đàm phán phân định biển là một
chủ đề mới phải vận dụng nhiều ngôn ngữ ngoại giao. Trước mắt Việt Nam
thua thiệt đã quá nhiều bởi mất đất, và chuẩn bị mất Vịnh Bắc Bộ và Biển
Đông, thế nhưng vẫn không chuẩn bị thực tế đàm phán, phân định ranh
giới để cho Trung Cộng tùy duyên dẫn đi đâu theo đó, cách làm này của
Việt Nam xem như vô trách nhiệm, họ không cần thiết chú ý "nước còn hay
đã mất", cho nên những nhà ngoại giao Trung Quốc không lấy gì làm lạ,
gọi những nhà lãnh đạo Việt Nam với hai từ "linh động".
Phía Việt Nam sợ nhất đàm phán phân định ranh giới Vịnh Bắc Bộ, bởi
trong vùng Vịnh gặp phải một cục bứu thối chính trị của "Bác" quá vĩ đại
đã bán đứng vùng Vịnh 1000 năm. Đàm phán nhất định sẽ thất bại, trả một
giá quá đắt đỏ, gặp nhiều phức tạp đưa đến khó khăn. Bước vào giai đoạn
đàm phán vùng Vịnh truyền thống của Việt Nam, Trung Quốc thường hay tìm
lý cớ phản đối, thực sự đã dẫn đến xung đột. Nổi bật nhất quốc gia nào
quan tâm đến Vịnh Bắc Bộ, chiến thắng sẽ ở trong lòng bàn tay. Trong khi
đó Tiền Kỳ Tham đã có quá nhiều kinh nghiệm đàm phán về biên giới lãnh
thổ và lãnh hải với 14 quốc gia lân bang, đáng kể nhất là biên giới Liên
Xô, Ân Độ, trái lại hai nhà ngoại giao của Việt Nam thiếu kinh nghiệm
lại thân cha đẻ Trung Cộng, chính xác hơn những nhân vật này được nên
người MSS là do Trung Cộng đào tạo.
Sự nghiệp vĩ đại của Hồ Chí Minh, tìm đường bán nước không thể chối cãi
Hồ Chí Minh đã 3 lần liên tục ký "Hiệp ước Vạn Lịch nhượng lãnh hải và Vịnh Bắc Bộ, Trung Quốc-Việt Nam" (Vạn lịch điều ước đích lĩnh thổ nhượng bộ hòa bắc bộ loan, Trung Quốc-Việt Nam): [6]
- Tháng 11 năm 1957. Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Ban Thư
ký đã ký, vấn đề biên giới lãnh thổ và lãnh hải Vịnh Bắc Bộ quan trọng
nhượng cho Trung Quốc, được dựa trên cơ sở chủ quyền 1000 năm. (1957
niên 11 nguyệt Việt Nam cộng sản đảng hòa bí thư xử đích trung ương ủy
viên hội dĩ kinh thiêm thự, biên giới vấn đề, bắc bộ loan trọng yếu đích
nhượng bộ, trung quốc đích lĩnh hải, thị cơ vu chủ quyền thiên niên). [7]
- Năm 1961, Phạm Văn Đồng thay mặt Hồ Chí Minh cùng với Chu Ân Lai xác
định lại một số nguyên tắc về pháp luật chủ quyền Vịnh Bắc Bộ, hai Chính
phủ quyết định giải quyết lãnh hải. (1961 niên, Phạm Văn Đồng, Hồ
Chí Minh đại biểu Chu Ân Lai trọng tân bắc bộ đích chủ quyền loan đích
nhất ta pháp luật nguyên tắc, lưỡng quốc chánh phủ quyết định tương giải
quyết lĩnh thổ). [8]
- Năm 1963, Phạm Văn Đồng thay mặt Hồ Chí Minh cùng với Chu Ân Lai ký
"Hiệp ước Vịnh Bắc Bộ". Trung Quốc-Việt Nam thiết lập tư vấn ranh giới
và tôn trọng lẫn nhau hoặc nhượng lãnh hải. Cấm tuyệt đối chính quyền
địa phương hay cộng đồng xâm lấn lãnh hải. (1963 niên, Phạm Văn Đồng,
Hồ Chí Minh đại biểu chu ân lai thiêm thự liễu "Bắc Bộ loan đích điều
ước". Trung Quốc-Việt Nam biên cảnh kiến lập liễu tư tuân hòa tương hỗ
tôn trọng hòa lĩnh thổ nhượng bộ. cấm chỉ địa phương chánh phủ hoặc xã
khu lĩnh thổ đích xâm phạm). [9]
Tất cả những hiệp ước trên đều liên quan đến khai thác thủy sản, tương
ứng thẩm quyền 3-12 dặm lãnh hải của Việt Nam, cũng như các bên thực
hiện quy định về hợp tác nghề cá. 3-12 hải lý cho vùng biển bên ngoài
khoảng cách đường cơ sở lãnh hải giữa hai nước, ba "Hiệp ước" trên, ngư
dân giữa hai nước tại khu vực được thành lập tổ hợp tác hành nghề đánh
cá chung "Tự do ra biển", tôn trọng sinh hoạt thói quen của ngư dân đã
sống hai thế hệ, có thể liên hiệp tự do hoạt động khai thác biển, dầu
khí, môi trường, du lịch v.v... tạo thành hai cộng đồng ngư dân ở phía
Bắc của Vịnh Bắc Bộ và ngư trường truyền thống quyền đánh bắt cá của
Trung Quốc.
Ngày 07 tháng 7 1955, Cộng hòa Nhân dân
Chính phủ Trung Quốc. Kỷ niệm ngày "Bác" dâng Vịnh Bắc Bộ. Và sau này
cũng chính nơi đây Hồ Chí Minh đã ký 3 lần hiệp ước, gọi tắt là "Hiệp
ước Vạn Lịch" (1000 Năm). Nguồn ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Sau khi ký kết "Hiệp ước nguyên tắc cơ bản"; Tiền Kỳ Tham hào hứng khoe
với BCT/TW Việt Công về tập thơ Trung Quốc "Ngục thất trong tù" của Hồ
Chí Minh, cho rằng "Bác" rất yêu văn hóa truyền thống quê hương (chính
Tiền Kỳ Thân tiết lộ "Bác" là người Hán). Trong những năm đầu của "Bác"
tham gia vào các hoạt động cách mạng tại quê hương cùng với Mao Chủ tịch
(毛泽东), Chu Ân Lai (周恩来) và các nhà lãnh đạo khác của Trung Quốc ngày
nay họ đều là thế hệ cũ đã từng giả mạo trên chính trường Trung
Quốc-Việt Nam tình bạn sâu sắc. Vì vậy chuyến thăm lần này Tiền Kỳ Tham
là người hiểu rõ về Hồ Chí Minh nhờ đọc nhiều tư liệu lưu trữ tại CPC và
MSS.
Tiền Kỳ Tham nói tiếp: Tôi có đã ý thức sâu sắc rằng tình hữu nghị
Trung-Việt phát nguồn gốc từ văn hóa "Bác" nhập lậu vào Việt Nam, nhân
dân Việt Nam tự tin vào Hồ Chí Minh đó là điều hạnh phúc nhất của đất
nước này. Mao Trạch Đông (毛泽东), Chu Ân Lai (周恩来) và Hồ Chí Minh (胡志明)
cẩn thận canh tác và chăm bón phân người trồng tình hữu nghị bắt rễ sâu
trong trái tim của nhân dân Việt Nam. Đây là sự phát triển tài sản giá
trị nhất mà Trung Quốc mong đợi. Mối quan hệ từ trước đến nay đã được
thiết lập trên cơ chế đảng trị không thương lượng với người dân Việt
Nam, nay đàm phán một trò chơi nhất trí của những lãnh đạo Trung Quốc và
Việt Nam như đã ký "Hiệp ước nguyên tắc cơ bản".
Bài đã đăng:
- Kỳ 1
- Kỳ 2
- Kỳ 3
_______________________________________
Chú thích:
[1] (关于解决中华人民共和国和越南社会主义共和国边界领土问题的基本原则协议).
[2] ("1990年论文集", 它是这样一个结构材料, 边界地图将按照界碑的法律制定, 因为所有的边界都被批准为依据中国-越南).
[3] (双方应按照公平原则并考虑北部湾的所有有关情况, 以取得一项公平的解决办法).
[4] (在和平共处五项原则的基础上, 建立和平, 稳定, 公正, 合理的国际新秩序).
[5] (长期稳定, 面向未来, 睦邻友好, 全面合作).
[6] (万历条约的领土让步和北部湾, 中国 - 越南)
[7] (1957年11月越南共产党和秘书处的中央委员会已经签署, 边界问题, 北部湾重要的让步, 中国的领海, 是基于主权千年)
[8] (1961年, 范文同, 胡志明代表周恩来重新北部的主权湾的一些法律原则,两国政府决定将解决领土).
[9] (1963年, 范文同, 胡志明代表周恩来签署了 "北部湾的条约". 中国-越南边境建立了咨询和相互尊重和领土让步。禁止地方政府或社区领土的侵犯).
Tiến trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990 (Kỳ 5)
Huỳnh Tâm (Danlambao) -
Sau vài tháng chưa nguôi ngoai cái hội nghị bí mật Thành Đô, Bắc Kinh
không cho Hà Nội tùy tiện an phận, gửi chỉ thị độc đến Nguyễn Văn Linh,
Đỗ Mười hãy tiếp nhận mật lệnh mới, dù đang bất tỉnh cũng phải đứng lên
vặn lấy sức người thực hiện "bình thường hóa quan hệ Trung-Việt" theo
chỉ thị nghị quyết "Kỷ yếu" đã định. Đồng thời Tiền Kỳ Thâm đã 2 lần bí
mật gặp Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười và nhiều lần hẹn gặp Thứ
trưởng thứ nhất Bộ ngoại giao Việt Nam Đinh Nho Liêm để thúc giục, tiến
hành gấp rút nghị quyết Trung-Việt, nhằm nhanh chóng đạt giải pháp chính
trị "đảng còn nước mất", buộc đảng Cộng sản Việt Nam tận dụng hết khả
năng chạy theo tiến trình toàn diện chính trị. Tất nhiên không thể cưỡng
lại ý Bắc Kinh, phải chấp nhận diễn biến "bình thường hóa quan hệ
Trung-Việt" vì đảng sống thuận theo ý Bắc Kinh, chính bóng hình lờ mờ
của "Bác" xưa nay vẫn làm thân "lược cài" cho chiến sách bành trướng hết
sức tàn nhẫn không còn lối thoát nào khả thi cho dân tộc Việt Nam, ngày
nay lộ trình ấy đảng "Bác" vẫn tiếp tục thi đua cho đến ngày tàn đất
Việt.
Hoạt động của những nhà lãnh đạo Trung Quốc, từ thời Mao cho đến chí
ngày nay, đều được CPC ghi chép và lưu lại. Chúng tôi tìm được toàn bộ
văn bản của "Hiệp ước nhượng lãnh hải và Vịnh Bắc Bộ Vạn Niên", chiến
tranh biên giới Việt-Trung 1970-1988, "Kỷ yếu Thành Đô 1990", và Hiệp
ước phân định biên giới lãnh thổ, lãnh hải Việt-Trung v.v... Nguồn: Quân
ủy Trung ương Trung Quốc (CPC). Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Quả nhiên cả dân tộc Việt Nam không ngờ rằng chính Hồ Chí Minh đưa đường
chỉ lối cho Trung Cộng thực hiện hạ tầng cơ sở "tư tưởng, chủ quyền,
bành trướng" vào ở trong lòng đất nước Việt Nam, bởi Hồ Chí Minh với
Trung Cộng đồng ký một hiệp ước giá trị 10.000 năm, vào ngày 07 tháng 7
năm 1955, "Hiệp ước nhượng lãnh hải và Vịnh Bắc Bộ Vạn Niên", (điều ước
đích lĩnh thổ nhượng bộ hòa Bắc Bộ loan phàm niệm vạn niên). Cho phép
Trung Cộng khởi sự khai thác theo từng thời kỳ.[1]
Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng tiếp nối "Kỷ yếu bí mật Thành Đô
1990", đối với Trung Cộng "Quý di tích lịch sử" giá trị phi thường,
tương đương 10.000 năm của "Hồ". Đúng lúc Trung Cộng chọn thời điểm chạy
nước rút bôi sạch từng phần Việt Nam. "Bác" đảng quyết liệt hơn, thừa
dịp đẩy cơ nghiệp Cộng sản Việt Nam tiến nhanh về hướng Bắc Kinh, cho
nên trong đàm phán đã chấp nhận thành lập "Hai nhóm chuyên viên và công
tác phân định lãnh thổ biên giới đất liền và lãnh hải vùng Vịnh Bắc Bộ
Việt Nam", một bình phong, trái độn của mưu đồ đại Hán.
Ở thời điểm này "Kỷ yếu Thành Đô" chưa lấy quyết định đàm phán Biển
Đông. Khởi đầu bộ máy điều hành cướp vùng, thành lập 2 Nhóm chuyên viên
vô trách nhiệm đàm phán sơ bộ và giám sát tiến trình phân định biên
giới. Nhóm công tác có trách nhiệm đo đạt phân định lãnh thổ, lãnh hải
và thiết lập cột mốc tại miền Bắc Việt Nam và vùng Vịnh Bắc Bộ.
1- Nhóm chuyên viên đàm phán và giám sát tiến trình phân định biên
giới. 2 - Nhóm công tác đo đạt phân định lãnh thổ, lãnh hải và thiết lập
cột mốc tại miền Bắc Việt Nam và vùng Vịnh Bắc Bộ. Tài liệu ảnh lưu:
Huỳnh Tâm.
Sau 6 tháng hoạt động của "Kỷ yếu Thành Đô", do Trung Quốc chủ trì đàm phán, phía Việt Nam phải tuân thủ qui lệ đã định. Cho nên trong những buổi đàm phán phía Trung Quốc thường nói ví von "Ta dắt trâu đi cày" (ngã môn thủy ngưu lê điền) và Việt Nam tự hào "Điều ấy vẫn còn hãnh diện vì bạn" (tha nhưng nhiên vi nhĩ kiêu ngạo). Đặc biệt phía đảng Cộng sản Việt Nam, tăng cường hỗ trợ công tác cho nhóm Trung Quốc, mở rộng qui hoạch, chuyên sâu vào lãnh thổ phía Bắc và loang rộng khỏi vùng Vịnh Bắc Bộ, ra đến tận vùng Biển Đông 120 hải lý thuộc chủ quyền Việt Nam. Một điều phi lý khác nhà nước Việt Nam phủ nhận quyền sống của ngư dân vốn đã được hưởng quyền đánh bắt cá theo truyền thống ngư trường trong Vịnh. Trái lại đảng Cộng sản Việt Nam không theo qui ước nào, tự chấp nhận và cho phép ngư dân Trung Quốc hoạt động rộng rãi tại Vịnh Bắc Bộ. Nhờ vậy Nhóm công tác Trung Cộng tạo ra mọi việc đã rồi, thừa dịp Trung Cộng lấy quyết định đặt lại cơ sở pháp lý cho đàm phán ngày mai.
9 - Chuẩn bị liên kết bán đứng biên giới Việt Nam
Trước khi đàm phán đại diện Chính phủ Trung Cộng và Nhóm chuyên viên
Trung Cộng chủ động tiến hành phân tích tình hình và nghiên cứu cẩn thận
từng kế hoạch hoạt động tại vùng Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam. Vào thời
điểm đó Pháp còn để lại nhân viên kiểm soát mặt biển trong Vịnh Bắc Bộ,
trái lại phía Trung Cộng không có nhân viên kiểm soát biển ở đây. Trung
Cộng tự thấy yếu thế về pháp lý so với phía Việt Nam. Khi ấy Trung Cộng
không thể ngồi khoanh tay nhìn vùng Vịnh Bắc Bộ không có bóng chủ quyền
Trung Cộng, vì nguyên nhân muốn bành trướng phải tự tạo ra một thứ chủ
quyền bằng khả năng cướp, họ tự cho rằng chấp hành nghiêm chỉnh luật
pháp quốc tế, "Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển" và vịn vào "Hiệp
định nguyên tắc cơ bản" Trung-Việt Nam vừa ký kết làm cơ sở đàm phán.
Trung Cộng tự tin rằng hành động có tính chính đáng, thừa sức thuyết
phục và kêu gọi Việt Cộng "hãy trở về đại lộ bên phải Bắc Kinh". (thỉnh
hồi đáo chánh xác đích đạo lộ, Bắc Kinh).
Photo 1 - Hiệp ước Pháp-Thanh 1885, đánh dấu ranh giới xây dựng cột
mốc ngoài khơi giữa sông Bắc Luân cửa Vịnh Bắc Bộ, cột mốc cao 1,7 m
trên mặt nước, rộng 0,7 mét, dày 0,4 mét, vật liệu xây dựng nền đá biển
vào tháng 4 năm 1890, cách cửa sông Bắc Luân 2km. Vị trí này có đáy biển
sâu; theo Pháp-Thanh tại đầu cửa sông là một trong những thủy lộ quan
trọng nhất của miền Bắc Việt Nam, thủy quân Tầu ô kéo vào Việt Nam và
tiến xuống thành Thăng Long đều xuất phát từ nơi này.
Chính phủ nhà Thanh và Pháp ký tại Thiên Tân ngày 9 tháng 6 năm 1885.
"Thanh-Pháp Hiệp ước Việt Nam" quy định theo điều ước quốc tế, biên
giới giữa hai nước kể từ Trúc Sơn từ cộng đồng, thông qua sông Bắc Luân
từ Đông sang Tây, ở trung tâm của ranh giới sông Phòng Thành Cảng đường
biên giới với Việt Nam, từ cửa sông Bắc Luân hướng Đông có Trúc Sơn địa
hình thu hẹp đến hang động Bắc Cương Ải, dài hơn 200 km, toàn bộ đoạn
này có di tích Tiêu Trí và Cộng Lập theo đánh dấu ranh giới cột mốc từ
số 1-33. Cửa sông như là ranh giới đất liền, ven sông đá đứng thiên
nhiên, những cuốn sách ghi chép điểm đánh dấu ranh giới gồm có "Đại
thanh khâm châu giới", "Đương thì phòng thành chúc khâm châu phủ hạt" và
cuốn sách "Đại Nam".
Photo 2 - Cột mốc của "Hiệp ước phân định biên giới lãnh thổ, lãnh
hải Việt-Trung" xây dựng năm 2006 cách cửa sông Bắc Luân 150m. Đối với
quy định Thanh-Pháp Hiệp ước Việt Nam" nay đã biến mấy. Việt Nam không
còn Trúc Sơn, động Bắc Cương Ải, di tích Tiêu Trí, Cộng Lập, ven sông đá
đứng thiên nhiên và cột mốc ranh giới từ số 1-33, dài hơn 200 km không
còn trên bản đồ của Việt Nam. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm. [2]
Trung Cộng thừa biết khó cãi đổi căn bản pháp lý của vùng Vịnh Bắc Bộ,
cũng khó cướp được ngư trường đánh bắt cá truyền thống của ngư dân Việt
Nam. Do vấn đề này Trung Cộng cần phải giải quyết càng sớm càng tốt,
trước mắt tạo ra một hồ sơ lợi ích chung liên quan đến đời sống của ngư
dân Trung Cộng được phép sinh cư tại vùng Vịnh, trong buổi đàm phán phía
Trung Quốc đưa ra vấn đề hai dân tộc chung sống, hy vọng phía Việt Nam
có thể ngồi xuống hội thảo giải quyết vấn đề Vịnh Bắc Bộ, toàn dân trong
Vịnh chấp nhận chung sống nhưng Trung Cộng không bao giờ chấp nhận hòa
bình.
Trong khi chờ đợi đàm phán, vào đầu tháng 8, Tiền Kỳ Tham đi trước một
bước thật dài, thực hiện chuyến đi đặc biệt đến đảo Hải Nam, thăm thị
trấn Quỳnh Hải Đàm (Ho Qionghai), cửa cảng thuyền cá Lâu Trấn (Louzhen).
Nghe báo cáo của Nguyễn Sùng Vũ (Ruan Chongwu) tỉnh trưởng đảo Hải Nam,
sau đó tiến hành điều tra thực địa, từ bờ biển đến toàn vùng Vịnh Bắc
Bộ. Lần này Tiền Kỳ Tham trở lại đàm phán, thay đổi quan điểm, ông đem
về cho phía Trung Cộng một mưu đồ cướp lãnh hải, và quyết tâm can thiệp
vào vùng Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam.
Ngày 15-18 tháng 8 năm 1994, cấp cao Chính phủ Trung Cộng-Việt Cộng bước
vào vòng 2 đàm phán, tổ chức tại Hà Nội. Tiền Kỳ Tham thay mặt phái
đoàn chính phủ Trung Cộng tham gia vào các cuộc đàm phán. Vũ Khoan
Trưởng phái đoàn Việt Nam chủ trì hội nghị, phát biểu:
- Việt Nam đánh giá cao mỗi bên tiến bộ đàm phán biên giới, Việt Nam đề
nghị phân định từng phần biên giới đất liền tại miền Bắc và thực hiện
cắm cột mốc, sau đó giải quyết đàm phán Vịnh Bắc Bộ và những vị trí quan
trọng ngoài Biển Đông.
Tiền Kỳ Tham không chấp nhận liền đọc một bài tham luận dài nội dung
nhấn mạnh tầm quan trọng của Trung Cộng tại Vịnh Bắc Bộ, liên tục đề
nghị phân định lãnh hải theo vị trí dân cư hai thế hệ, người Hán ở đâu
cột mốc hiện diện đến đó!
Vũ Khoan phát biểu:
− Tôi đánh giá đàm phán biên giới đất liền có tiến bộ, tuy nhiên lưu ý
rằng cuộc đàm phán biên giới cần duy trì một bầu không khí tốt, trước
khi giải quyết hai bên phải tuân thủ nghiêm ngặt liên quan đến việc ký
kết vào hiệp ước biên giới để cho phù hợp với các thỏa thuận theo "Hiệp
định tạm thời" đã qui định, thẩm quyền xử lý theo tình hình cụ thể, hai
bên cần tăng cường thành viên Chính phủ và các ban ngành địa phương liên
quan với nhau tại thực địa biên giới.
Tiền Kỳ Tham, đặt ra đàm phán trước khi phân giới Vịnh Bắc Bộ, quan điểm
cho rằng lịch sử luật học đã chỉ rõ từ lúc có ngư dân Trung Cộng sống
trên Vịnh đó là chủ quyền theo quan hệ quốc tế. Thực tế quyền đánh cá
truyền thống trong Vịnh thuộc quyền quốc gia Trung Cộng, lưu ý rằng đời
sống dân cư ngư nghiệp, hoạt động thủy sản gần 1,38 triệu người, tại 3
tỉnh Quảng Tây, Hải Nam và Quảng Đông Trung Cộng vấn đề này có liên quan
trực tiếp đến quyền đánh bắt cá, đời sống của ngư dân cần ổn định trong
xã hội.
Tiền Kỳ Tham long trọng nói với phía Việt Nam, hai bên sẽ phân chia Vịnh
Bắc Bộ phải đạt được thỏa thuận, trước tiên phía Việt Nam nên tôn trọng
ngư dân Trung Cộng trong Vịnh Bắc Bộ, bao gồm quyền đánh bắt cá truyền
thống trong vùng biển tranh chấp. Chính phủ Trung Cộng sẽ không tha thứ
cho các tàu vũ trang Việt Nam cướp tài sản của ngư dân Trung Cộng đang
đánh bắt cá và gây ra các sự cố khác.
Tiền Kỳ Tham còn cảnh cáo: Phía Việt Nam cần lưu ý rằng, các cuộc đàm
phán phân chia Vịnh Bắc Bộ, phải có điều khoản qui định quyền đánh cá
truyền thống của ngư dân Trung Quốc, một trong những yếu tố quan trọng
phải được xem xét phân định công bằng. Hơn nữa, các bộ phận của các cuộc
đàm phán Vịnh Bắc Bộ, là sự cần thiết cuối cùng cho một hình thức hợp
pháp, do ngư dân Trung Cộng quyết định quyền này, hy vọng sắp xếp cho
hợp lý và hợp tác song phương trong ngành thủy sản sau khi phân định.
Không thấy Vũ Khoan Trưởng đoàn Việt Nam phát biểu ý kiến và phản ứng!
Hai nhóm chuyên viên và công tác phân định lãnh thổ biên giới đất
liền và lãnh hải vùng Vịnh Bắc Bộ Việt Nam, cụng ly uống cạn, vui mừng
hoàn thành sứ mạnh bán nước của "Bác" đảng ta. Nguồn: MSS.
Hiệp định phân định vượt qua sự khác biệt.
Ngày 18, Tiền Kỳ Tham bí mật tham vấn cho Vũ Khoan, về quan hệ song
phương và các vấn đề khác có liên quan khu vực Vịnh Bắc Bộ, trao đổi
quan điểm quốc tế. Một lần nữa nhắc nhở cá nhân Vũ Khoan:
− Khi cuộc đàm phán chính thức, giọng điệu của bạn và tôi, vẫn duy trì
yên tĩnh tình hình Vịnh Bắc Bộ, đến khi đàm phán biên giới đất liền quan
trọng nhất đối với sự phát triển quan hệ song phương, và sau đó chúng
ta âm thầm xử lý đúng đắn các vấn đề có liên quan đến Vịnh Bắc Bộ.
Tiền Kỳ Tham đến Hà Nội, gặp gỡ Chủ tịch Việt Cộng Lê Đức Anh, Phó Thủ
tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm. Chuyến thăm lần này
được Chủ tịch nước Lê Đức Anh tiếp đón, ngày hôm ấy Lê Đức Anh có một
yêu cầu nhờ Tiền Kỳ Tham chuyển thông điệp của các nhà lãnh đạo Việt Nam
"Đã chấp hành tốt nghị quyết của đảng, xin Chủ tịch Giang Trạch Dân hãy
tin tưởng BCT/TW VN, một lòng ân quốc và kính chúc khang ninh".
Lê Đức Anh còn trịnh trọng nói rằng "Việt Cộng và Trung Cộng có nhiều
điểm cơ bản tương đồng trong hệ thống xã hội, các chính sách hiện hành,
Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam và các thành phần cùng mức độ
đồng thuận cao về vấn đề "cắt" lãnh thổ và lãnh hải để phát triển quan
hệ hữu nghị với Trung Cộng, quan hệ Việt Cộng -Trung Cộng người một nhà,
không thể thay đổi lòng, cũng không thể giảm tình anh em. Về vấn đề
này, các nhà lãnh đạo Việt đã thể hiện quyết tâm và có thể Trung Cộng tự
tin sâu sắc.
19 tháng 8 năm 1994, hai phái đoàn cấp cao Chình phủ Việt Cộng -Trung
Cộng gồm Tiền Kỳ Tham và Vũ Khoan đi thực địa biên giới Việt Nam, khởi
hành từ Hà Nội đến cổng Ải Nam Quan 180 km, hành trình từ Hà Nội đến Nam
Ninh mất khoản 10 giờ, đường xá Việt Nam không được tốt, còn 6 hay 7
giờ nữa sẽ đến Ngã Môn biên giới. Trên đường đi theo hướng những tỉnh
phía Bắc của Việt Nam.
Vũ Khoan cho biết: Chúng tôi băng qua cầu sông Hồng ra vùng ngoại ô.
Chẳng bao lâu chúng tôi đã đến đồng bằng sông Hồng là đại bình nguyên
thượng. Nhìn ra cửa sổ thấy toàn cảnh "nhất mã bình xuyên", và những con
đường rộng; hai bên đường có những khu nhà nông dân và cánh đồng lúa
bậc thang, chắp vá vào nhau tuyệt đẹp. Buổi chiều đến Nam Ninh, sáng hôm
sau chúng tôi dậy sớm, dùng một bữa ăn đơn giản, xem lại lộ trình.
Chúng tôi lên đường đi dọc theo lộ lớn, một trong những hướng Bắc, địa
hình thấp và cao. Lái xe qua Bắc Ninh, chúng tôi đi qua ngọn núi phía
bắc Việt Nam, từ các lĩnh vực rộng tầm nhìn dần dần thu hẹp lại, và sau
đó chúng tôi sẽ đi bộ qua những con đường núi.
Chúng tôi đến Lạng Sơn, khoảng cách rất gần biên giới Trung-Việt. Trong
thỏa thuận thực địa, chúng tôi đến thăm chợ của nông dân. Nơi đây biên
giới Trung-Việt không còn bao lâu nữa sẽ mở cửa giao thương phát triển
nhanh chóng, có rất nhiều sản phẩm từ Trung Cộng chuyển qua Việt Nam,
sản phẩm công nghiệp chủ yếu là đồ tiêu thụ. Người dân địa phương nói
với tôi, Bia của Trung Cộng sản xuất nổi tiếng nhất. Điểm cuối cùng
chúng tôi đã đến là cổng Hữu Nghị vào lúc 13 giờ 40 cùng ngày. Tôi đi bộ
qua cổng đánh dấu "tình bạn", nơi trở về miền ấy đã một lần ra đi. Sau
một lúc nghỉ giải lao, chúng tôi chuẩn bị lên pháo đài Kim Kê Sơn kiểm
tra tình hình biên giới Việt Cộng-Trung Cộng.
Trong cuộc đàm phán biên giới vòng 2 giữa hai cấp Chính phủ, sự phân
định phía Bắc của Vịnh Bắc Bộ gặp khó khăn nghiêm trọng, kẻ bán sợ vỡ
nợ, kẻ mua hối thúc. Trong các cuộc đàm phán, hai bên tiếp tục tăng
cường hổ trợ và yêu cầu lợi ích về mình. Trung Cộng tuyên bố rằng Vịnh
Bắc Bộ đã phù hợp với cái gọi là kinh độ 108 độ trong khoảng 3 phút và
13 giây dòng mô tả bởi chính phủ nhà Thanh của Trung Quốc và chính phủ
Pháp đã phân định như thế.
Ngày 20-ngày 22 tháng 6 năm 1995 Hà Nội. Các bộ phận chuyên viên tổ chức
đàm phán, Nhóm làm việc chung đàm phán vòng thứ 5, hai bên đã làm nóng
cuộc tranh luận, không có thỏa thuận nào đạt được trong quá trình đàm
phán về toàn bộ biên giới Việt Nam, trong ngày kết thúc đàm phán không
đem lại kết quả bởi Trung Cộng đòi chia cổ phần lãnh thổ và lãnh hải quá
nhiều.
Ngày 13 tháng 7 năm 1995, đàm phán biên giới vòng 3 giữa hai cấp Chính
phủ, tổ chức tại Nhà khách Quốc gia Điếu Ngư Đài Bắc Kinh. Tiền Kỳ Tham
chủ trì cuộc đàm phán. Cụ thể trình bày quan điểm thuộc hệ thống lịch sử
Trung Cộng ở phía Bắc của Vịnh Bắc Bộ và vị trí phân định ranh giới.
Phía Trung Cộng tố cáo, kể từ khi ký "Hiệp uớc nguyên tắc cơ bản", phía
Việt Nam đơn phương mở rộng kiểm soát phía Bắc, công bố đấu thầu Vịnh
Bắc Bộ trong vùng biển truyền thống, thứ đến hoạt động không bình thường
của ngư dân Việt Nam cướp một tàu đánh cá Trung Cộng, cuộc sống và an
toàn tài sản của ngư dân Trung Cộng đặt ra một mối đe dọa nghiêm trọng.
Trung Cộng rất quan tâm về việc đàm phán của Nhóm làm việc chung ở vòng
thứ 5, chú trọng ủng hộ vị trí ngược lại Vịnh Bắc Bộ có kinh độ 108 độ 3
phút 13 giây dòng.
Vào thời điểm này, vì lý do gì Vũ Khoa không kêu gọi các bên thể hiện
đàm phán chân thành, mà để Tiền Kỳ Tham phía Trung Cộng tự đứng ra xử lý
tranh chấp thủy sản thông qua các cuộc đàm phán phân chia Vịnh Bắc Bộ,
Vũ Khoa còn cho rằng "đây là giải pháp đúng đắn cho hai nước".
Tiền Kỳ Tham la lớn tiếng, hỡi Vũ Khoan hãy nghe những lời của tôi, và
nhớ rằng Việt Nam đã ký kết với Trung Cộng "Hiệp ước 1993" và "Hiệp ước
nguyên tắc cơ bản", nếu phá vỡ phân chia Vịnh Bắc Bộ sẽ bế tắc như những
năm 1970. Ông cảnh báo, Trung Cộng nhất định đi tới mục đích, tin rằng
Việt Nam sẽ không đi thụt lùi, các nhà lãnh đạo Việt Nam không còn lý do
nào quay đầu trở lại đã đến lúc cần thể hiện quyết tâm cao.
Những thành viên trong Bộ Chính trị Trung Cộng cùng Phó Thủ tướng Lý
Bằng gặp Vũ Khoan. Chúng tôi sắp xếp cho Vũ Khoan đến Sơn Đông truy cập
rộng rãi một số dữ liệu nghị sự đàm phán đã quyết định trước, nói đúng
hơi Vũ Khoan đi nhận mệnh lệnh mới.
Sau khi ông Vũ Khoan từ Sơn Đông trở về Bắc Kinh, nói với Tiền Kỳ Tham
rằng, ông đã đi thăm quê hương Khổng Tử ở Khúc Phụ, Sơn Đông, có để lại
tại đó một ấn tượng rất sâu sắc. Sau khi trở về Việt Nam, ông Vũ Khoan
viết "Viếng thăm quê hương Khổng Tử", một tờ báo đảng Hà Nội xuất bản
trên chủ đề "Tuần lễ Quốc tế". Bài báo giới thiệu Vũ Khoan "Càng có
nhiều đối tác cũ đang bắt rễ sâu vào đất màu mỡ của lịch sử Trung Quốc,
các thế hệ Việt Nam tương lai không có lý do nào từ chối sự bắt rễ sâu
thêm". Chỉ cần một phát biểu này đã chứng minh được đảng Cộng sản Việt
Nam chủ ý mượn Khổng Tử đẩy dân tộc Việt Nam vào hòa biến Trung Cộng.
Tháng 11 năm 1995 Tổng Bí thư Đỗ Mười, chính thức viếng thăm Bắc Kinh,
không biết ông ta đã ký Hiệp ước gì để kết thúc tranh luận, đàm phán
phân chia Vịnh Bắc Bộ. Trong chuyến thăm lần này, hai nhà lãnh đạo tái
khẳng định các nguyên tắc trên cơ sở tinh thần của tình hình chung qua
cuộc họp cấp cao Chính phú. Đỗ Mười khẳng định trước đây giữa hai nước
đã đạt được và hiểu biết lẫn nhau, cùng ăn, cùng hưởng mọi công bằng có
hợp lý và tinh thần tham vấn thân thiện, phù hợp với luật pháp quốc tế,
luôn có sự tham khảo quốc tế, thông qua đàm phán hòa bình, một giải pháp
thích hợp vấn đề biên giới giữa hai nước tồn tại. Hai nhà lãnh đạo nhất
trí thúc đẩy vượt qua quá khứ, khác biệt tranh chấp ranh giới Vịnh Bắc
Bộ của những năm 1970. Ngày nay thành lập các khuôn khổ chính trị mới và
định hướng trong suốt những nỗ lực đàm phán của cả hai bên để thúc đẩy
quan hệ song phương Trung-Việt.
Ngày 14 tháng 2 năm 1996, Tiền Kỳ Tham đến Bằng Tường biên giới Quảng
Tây và Việt Nam tham dự buổi lễ cử hành khai mạc phục hồi đường sắt. Thứ
trưởng Ngoại giao Việt Nam Vũ Khoan phát biểu tại buổi lễ: "Cả hai bên
đều khẳng định vai trò quan trọng của tỉnh Quảng Tây và Việt Nam trao
đổi nhiều hơn trong lịch sử của đường sắt, Trung Cộng đã từng hỗ trợ
cuộc chiến cho Việt Nam chống Pháp. Cả hai bên đều tin rằng đây là mở
đường sắt một lần nữa báo trước sự phát triển của mối quan hệ Trung Cộng
và Việt Cộng hứa hẹn tương lai một nhà chung".
Sau lễ khai mạc phục hồi đường sắt, Vũ Khoa mời ông Tiền Kỳ Tham đến
Lạng Sơn tham vấn về quan hệ song phương biên giới. Đây là chuyến thăm
đặc biệt Vũ Khoa muốn trao đổi. Điểm hẹn Khách sạn Kim Sơn thành phố
Lạng Sơn. Tại nơi này Tiền Kỳ Tham đưa ra ba đề xuất:
Thứ nhất, đàm phán phân định ranh giới toàn vùng Vịnh Bắc Bộ, có thể đạt
được bởi các nhà lãnh đạo hiểu biết lẫn nhau tình hình chung của hai
nước, công bằng, hiệp thương hữu nghị, "sự đồng thuận là tư tưởng chỉ
đạo năm 1993", hai bên đã ký các nguyên tắc cơ bản của thỏa thuận" như
là một cơ sở pháp lý chung.
Thứ hai, cả hai bên cần tiếp tục trao đổi ý kiến trên cơ sở lý tưởng,
đưa ra đường lối và các yếu tố khác có liên quan quan hệ song phương.
Trung Cộng sẽ đưa ra dòng ý tưởng của mình.
Thứ ba, cả hai bên cần đạt được một sự hiểu biết "nội bộ" trên nguyên
tắc công bằng. Trong khi đó toàn bộ quá trình đàm phán cần thiết nhất
phân định lãnh thổ phía Bắc và lãnh hải Vịnh Bắc Bộ, hai bên sắp xếp cho
hợp lý và ngư dân của hai phía hoạt động bình thường trong vùng Vịnh
Bắc Bộ.
Ba đề nghị của Tiền Kỳ Tham đưa ra, Vũ Khoan đồng ý và nhất trí. Vũ
Khoan phát biểu: Phía Việt Nam sẽ tuân thủ giải pháp Vịnh Bắc Bộ sẽ đàm
phán phân định lại Biển Đông. Tuy nhiên, phải bảo vệ an ninh cho ngư dân
Trung Cộng hoạt động bình thường trong Vịnh Bắc. Vũ Khoan còn cho biết:
Phía Việt Nam cần xem xét sau khi hoàn thành phân giới cắm mốc tại Vịnh
Bắc Bộ.
Tiền Kỳ Tham hài lòng và trao đổi:
− Phân giới cắm mốc và bảo vệ ngư dân của Trung Cộng tại Vịnh Bắc Bộ là
hai vấn đề phải tách rời ra, vấn đề bản thân thủy sản của Vịnh Bắc Bộ
khác với phân giới cắm mốc, Việt Nam chỉ xem phần lãnh thổ quan trọng,
đối với Trung Cộng quan tâm ưu tiên hàng đầu vấn đề thủy sản. Tôi nhấn
mạnh rằng mối quan tâm của Trung Cộng về các vấn đề thuỷ sản sẽ không hy
sinh lợi ích của ngư dân khi phân định chưa kết thúc. Hai thằng Tàu cãi
qua cãi lại kết cuộc chỉ thấy một thằng Tàu.
Ngày 04 tháng 3 đến 11 năm 1996, trong sự phân chia Vịnh Bắc Bộ, Nhóm
làm việc chung tổ chức đàm phán vòng thứ 6 tại Bắc Kinh. Hai bên đã trao
đổi quan điểm về các nguyên tắc bình đẳng, công bằng, cả hai xác nhận
tầm quan trọng cơ bản, đồng ý trao đổi ý kiến càng sớm càng tốt về Vịnh
Bắc Bộ. Điều này làm cho phía Việt Nam phấn khởi đi đúng đàm phán của
Trung Cộng muốn gì được náy.
Ngày 18 đến 23 tháng 9 năm 1996, Tiền Kỳ Tham đứng đầu phái đoàn Chính
phủ Trung Cộng, dẫn phái đoàn đến Hà Nội, tham dự đàm phán biên giới
vòng thứ 4. Trong các cuộc đàm phán, Tiền Kỳ Tham tập trung quan điểm và
lấy luật pháp Trung Cộng hù thiên hạ, ông ta giải thích chi tiết, ý
muốn cho ra một quái thai Vịnh Bắc Bộ. Ông cho rằng Trung Cộng và Việt
Cộng cần mối quan hệ tổng thể chính trị có cân bằng phân định cơ bản
nhất của tình hình biên giới. Hai nước đồng có dân cư sống trong Vịnh
Bắc Bộ, tạo nên cơ sở đàm phán song phương hàng hải ven bờ biển. Hai bên
xem xét lại vùng Vịnh Bắc Bộ và chiều dài bờ biển đối diện với đất liền
v.v...để đạt được các mục tiêu chung cho cân bằng lợi ích của cả hai.
Mục đích của luật pháp là công bằng, thân thiện, kinh tế hợp lý, phù hợp
chính trị, và căn bản lợi ích của nhân dân hai nước.
Vũ Khoan cho rằng:
- Theo hình thành cơ sở Vịnh Bắc Bộ, phía Trung Cộng được phân chia
nhiều hơn dự định, điều này đã có quyết định trong chuyến viếng thăm
Trung Quốc vào tháng 11 năm 1995 của BCT/TW Tổng Bí thư Đỗ Mười và các
nhà lãnh đạo Việt Cộng, đã thực sự trao toàn quyền xử lý cho Trung Cộng.
Không còn gì để báo cáo một cách trung thực. Sau đó, ông giải thích chi
tiết các quan điểm của BCT/TW đảng. Ông cho biết phía Việt Cộng tin
rằng Trung Cộng xem xét lại ranh giới cho công bằng, đầu tiên yếu tố địa
lý tự nhiên và địa lý đặc biệt.
Vũ Khoan lạc quan cho rằng, Vịnh Bắc Bộ là động mạch giao thông Biển
Đông, một cửa ngỏ Vịnh Bắc Quốc tế của Việt Nam không thể mất, bởi tầm
quan trọng sống còn đối với Việt Nam. Ông đề xuất Vịnh Bắc Bộ phân định
ranh giới từ phía đảo Hải Nam Trung Quốc không thể so sánh với đất liền
Việt Nam.
Về vấn đề này, Trung Cộng ngay lập tức phản pháo cho rằng đảo Hải Nam là
một tỉnh duyên hải của Trung Quốc. Nó là một hòn đảo trong toàn bộ Biển
Đông, tạo thành đại dương được hưởng các quyền cơ bản và phân định tác
dụng tương tự theo luật pháp quốc tế về Biển. Cuối cùng, Tiền Kỳ Tham
một lần nữa nghiêm túc đàm phán phân chia Vịnh Bắc Bộ và mở rộng ý tưởng
phân giới cắm mốc. Trong vòng đàm phán này, hai bên đã nhất trí thành
lập một nhóm tham vấn chuyên gia Biển, thực hiện không chính thức về các
vấn đề liên quan đến chương trình đường ranh giới lãnh hải.
Ngày 18 tháng 9 năm 1996, Thứ trưởng Ngoại giao Vũ Khoan thường xuyên
quan hệ song phương với Tiền Kỳ Tham, trao đổi quan điểm khu vực và quốc
tế. Vào ngày 19 tháng 9, các thành viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng
Trần Đức Lương đã gặp phái đoàn chính phủ Trung Cộng.
Năm 1996 đến năm 1997, hai Nhóm công tác lãnh hải tổ chức đàm phán vòng
3, phân chia vùng Vịnh Bắc Bộ, quan điểm Việt Nam ủng hộ phân định hàng
hải, lần này mới vào cuộc đàm phán đã nhận được đột phá, đạt được sự
đồng ý phân định Vịnh Bắc Bộ theo dân cư Trung Quốc.
Thầm lặng bán lãnh thổ và lãnh hải
Tháng 7 năm 1997, Tổng Bí thư Đỗ Mười đi thăm Trung Cộng. Tiền Kỳ Tham
đến Nhà khách Quốc gia Điếu Ngư Đài thăm phái đoàn Chính phủ Việt Nam,
và tham khảo trước nghị trình cuộc đàm phán chung của Ủy ban ranh giới
tổ chức tại Đại sảnh đường Điếu Ngư Đài, tập trung vào việc phân chia
Vịnh Bắc Bộ tuy có vài quan điểm gây khó cuối cùng thông qua, phía Trung
Cộng đưa ra luận điệu rõ ràng trong buổi đàm phán không lấy cân bằng
làm đột phá, bởi trên tay Trung Quốc có nhiều lá bài "đảng tham sống sợ
chết", lúc này Tiền Kỳ Tham đứng lên giảng cái lý của kẻ mạnh. Đỗ Mười
ngồi im phăng phắc chỉ biết lấy quyết định đồng ý làm mục phiêu sinh tồn
cho đảng nhu nhược.
Ngày 13-đến 15 tháng 7 năm 1997, tổ chức tại Nhà khách Quốc gia Điếu Ngư
Đài Bắc Kinh đàm phán biên giới vòng thứ 5, cấp Thứ trưởng Ngoại giao
tham dự. Trong vòng đàm phán lần này, Việt Nam bắt đầu đưa ra nghị sự
biên giới đất liền làm đầu đề có nhóm soạn thảo "Hiệp ước", hai bên đồng
ý. Và hai bên đã trao đổi quan điểm đàm phán toàn bộ khu vực Vịnh Bắc
Bộ, cũng được tối đa đồng thuận, thu hẹp sự khác biệt, hai bên
Trung-Việt phấn đấu để di chuyển cột mốc vào lãnh thổ phía biên giới
Việt Nam ? Được xem vị trí cột mốc căn bản của chủ quyền hai nước. Sau
đó duy trì một cơ chế tham vấn chính thức của nhóm chuyên gia biên giới,
phấn đấu để tìm mọi đồng thuận lẫn nhau, hai bên nhất trí cùng nhau
"Phổ biến kế hoạch phân định biên giới Trung-Việt", (lưu hành đích hoa
phân phương án Trung-Việt). Đã 17 năm trôi qua (1997-2014) nhân dân Việt
Nam chưa hề biết nội dung (Phổ biến kế hoạch phân định biên giới).
Bộ trưởng Ngoại giao Trung Cộng Tiền Kỳ Tham gặp Phó Thủ tướng Thứ
trưởng Ngoại giao Việt Cộng Vũ Khoan và đoàn tùy tùng, đưa ra quyết định
đàm phán, phân chia thủy sản Vịnh Bắc Bộ, ông cho rằng trái tim của vấn
đề lớn đều nằm trong đàm phán Vịnh Bộ Bộ.
Kể từ khi khởi động lại các cuộc đàm phán về biên giới Trung-Việt vào
năm 1992, Trung Cộng đã nhiều lần khuyến cáo vấn đề Vịnh Bắc Bộ với phía
Việt Nam, nhấn mạnh đàm phán để giải quyết phân định Vịnh Bắc Bộ và các
vấn đề thủy sản cùng một lúc. Thực chất Trung Cộng muốn chiếm Biển Đông
lại muốn tránh xâm lăng cho nên chuyển qua Vịnh Bắc Bộ nếu được toàn
thắng cả hai cùng lúc lưỡng tiện.
Suốt quá trình đàm phán phân định lại miền Bắc và Vịnh Bắc Bộ, theo quy
định đã ký kết, phía Trung Cộng vũ trang tàu biển hoạt động trong Vịnh
Bắc Bộ, đã tuyên bố long trọng bảo vệ ngư dân Trung Cộng tránh cướp
biển. Cho đến thời điểm cuối cùng của cuộc đàm phán, vấn đề này đã trở
nên rõ ràng chỉ còn lại đôi điều trở ngại không quan trọng lắm đối với
các cuộc đàm phán trước đây thường phước tạp, cuối cùng Việt Nam cũng đã
hiểu mọi mặt chính trị trong đàm phám, và để hiểu tại sao người Trung
Cộng khẳng định làm sạch biên giới, thủy sản Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông,
từ nay mỗi khi Trung Cộng hoạt động trong vùng liên quan lãnh thổ hay
lãnh hải của Việt Nam đều có thông báo trươc.
Trên thực tế, Trung Cộng chú trọng như vậy để sắp xếp lại Biển Đông, lấy
được Vịnh Bắc Bộ và vùng đảo Bạch Long Vĩ, tất nhiên Biển Đông trong
tầm tay, mọi liên quan đến sinh kế của ngư dân chỉ là một trong muôn lý
do cho phép kẻ muốn thôn tính lân bang. Đúng hơn, Bộ Ngoại giao Việt Nam
có nhiệm vụ bán lãnh hải và lãnh thổ cho Trung Cộng, qua một tiểu bang
của Chính phủ mà đảng gọi thật kêu với cái tên quá dài "trách nhiệm với
nhân dân, là một vấn đề chính trị có ảnh hưởng đến sự ổn định địa phương
và xã hội", (đối nhân dân phụ trách, thị ảnh hưởng đương địa xã hội ổn
định đích chánh trị vấn đề).
Tiền Kỳ Tham cho biết:
− Quá ngạc nhiên, các nhà đàm phán Việt Nam không thể hiểu nổi phía
Trung Cộng vì sao cứ nằng nặc, nhấn mạnh lãnh thổ miền Bắc và lãnh hải
Vịnh Bắc Bộ. Nay mới kết thúc này, như tôi đã nhiều lần tham khảo ý với
đồng chí Vương Nghị (Wang) sau khi tôi thực hiện trách nhiệm và tìm kiếm
giải pháp cụ thể đã thành công phần đầu.
Tháng 2 năm 1999, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu thăm Trung Quốc, được Giang
Trạch Dân tiếp đón, hai bên đồng thuận, quyết định năm 2000 đàm phán để
xác định, giải quyết lãnh thổ biên giới, lãnh hải Vịnh Bắc Bộ và Biển
Đông.
Tháng 12 năm 1999, Tiền Kỳ Tham và Vũ Khoan tham dự lễ ký "Hiệp ước biên
giới đất liền Trung-Việt", (Trung-Việt lục địa biên giới điều ước) Sau
lễ ký kết. Trong cuộc họp, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đưa ra quan điểm
chính trị luộm thuộm, không tập trung vào Vịnh Bắc Bộ hay thủy sản mà
hiệp ước đã ban hành, thiếu sự chú ý không quan tâm, và chưa hề tham
khảo với Tổng Bí thư Giang Trạch Dân. Nếu ông Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu
xem việc nước nhạt nhẽo như nước ốc, thì đàm phán "Xác định ranh giới
Vịnh Bắc Bộ và giải quyết đánh bắt cá" sẽ thông qua không khó.
Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu cũng có một ý khác thường, ông cho biết về đàm
phán "Xác định ranh giới Vịnh Bắc Bộ và giải quyết đánh bắt cá". Ông đã
thảo luận cùng với các nhà lãnh đạo Việt Nam là sẵn sàng tích cực ủng
hộ. Ông còn nói rằng trên lĩnh vực nuôi trồng thủy sản tại Vịnh Bắc Bộ
có thể phía Trung Quốc tiến hành ngay lập tức không cần thông qua đàm
phán, đồng thời đàm phán phân định ranh giới không trở ngại.
Vị trí Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu rất quan trọng cho cả hai bên, ông ta
kịp thời đã bật đèn xanh để bắt đầu thoả hiệp phân định ranh giới của
hai nước xem ra đàm phán thủy sản cũng không trở ngại đã được giải quyết
trên nguyên tắc đồng thuận ngoài đàm phán, Lê Khả Phiêu đã tạo điều
kiện cắm cột mốc cho ngững tháng sau này. Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm
sau một thời gian dài với chức vụ Bộ Trưởng ngoại giao nay từ chức.
Ngày 28 tháng 11 năm 2000, ông Nguyễn Dy Niên được Chính phủ Việt Nam bổ
nhiệm tân Bộ Trưởng Ngoại giao, còn ông Vũ Khoan được bổ nhiệm làm Bộ
trưởng Bộ Thương mại. Bộ trưởng Bộ Ngoại thương và Kinh tế Trung Quốc
Thạch Nghiễm Sanh (Shi Guangsheng) gửi công văn chúc mừng Vũ Khoan.
Nguyễn Dy Niên vừa nhậm chức Bộ trưởng Bộ Ngoại, hạnh phúc lớn nhất nhận
được điện tín chúc mừng của Tiền Kỳ Tham, tự xem một sự công nhận chính
thức của triều Trung Cộng.
Ngày 31 tháng 1 năm 2000, Lý Gia Trung (Li Jiazhong) cũng được bổ nhiệm
Đại sứ Trung Cộng tại Việt Nam. Sau khi Nguyễn Duy Niên nhậm chức Bộ
trưởng Bộ Ngoại ông bày tỏ và hy vọng Trung Cộng là nơi đầu tiên ông đến
thăm, ông kêu gọi các nhà lãnh đạo Trung Cộng đàm phán lãnh thổ và lãnh
hải giữa Việt Cộng-Trung Cộng. Tiền Kỳ Tham gửi công văn mời Nguyễn Dy
Niên đến thăm Trung Cộng.
Ngày 24-đến 26 tháng 2 năm 2000, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Dy
Niên chính thức thăm Trung Cộng. Thủ tướng Chu Dung Cơ và Lý Bằng tương
ứng, tiếp Nguyễn Dy Niên tại Hội trường đại sảnh Trung Nam Hải.
Vào ngày 25, Bộ trưởng Ngoại giao Tiền Kỳ Tham với Nguyễn Dy Niên hội
đàm chính thức tại Nhà khách Quốc gia Điếu Ngư Đài. Trong các cuộc đàm
phán, đề cập nhiều về quan hệ song phương, trao đổi khu vực và quan điểm
toàn diện tình hình quốc tế, Tiền Kỳ Tham cứ nói xoen xoét về sự tập
trung phân định ranh giới Vịnh Bắc Bộ. Hai bên cần nỗ lực để làm tốt
công việc tỷ lệ diện tích và thỏa thuận thủy sản trên biển.
Năm 1995, các nhà lãnh đạo Trung Cộng thường phản ánh lợi ích và khái
niệm chung "cán cân phân định ranh giới". Những nhà lãnh đạo Việt Nam
cũng đã đồng ý nội dung trong cuộc trò chuyện tương tự, miễn là cả hai
bên phù hợp với sự nhất trí của lãnh đạo hai nước, thực tế Trung Cộng
khám phá đảng Cộng sản Việt Nam nhu nhược "Nọa nhược dữ tà ác địch nhân
đích nhân", ham sống sợ chết, tứ đó Trung Cộng tha hồ tạo ra tiền lệ cho
những giải pháp đối phó với Việt Cộng hay giải quyết gọn nhẹ lãnh thổ
biên giới, và kiểm soát toàn vùng Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam.
______________________________________
Chú thích:
[1] (中越领导人成都秘密会晤内幕 - 中共辽宁省委党史研究室).
[2] Photo 1 - 1885年6月9日, 清政府和法国在天津签定的 (中法越南条约), 条约规定, 两国边界自竹山起界,
循北伦河自东向西, 以河心为界线. 防城港市与越南的边界线, 从竹山的北伦河口至峒中的北岗隘, 长200多公里, 全段以石碑为标致,
共立1至33号界碑. 其中以河为界的, 双方各于已方河岸相对立石, 以山为界的则双方共立一块界碑, 一面书 "大清国钦州界"
(当时防城属钦州府辖), 一面书 "大南" (即越南).
Tiến trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990 (Kỳ 6)
Huỳnh Tâm (Danlambao) - Ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham tuyên bố trong hội nghị đàm phán tại Hà Nội:
− Đã đến lúc chúng tôi xử lý vùng Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam, thẳng thắn,
thu về toàn bộ lãnh hải, nay phân giới cắm cột mốc chỉ là một động tác
giả hình, nhằm che khuất lòng dân của bạn phẫn uất, chúng tôi thực hiện
những gì dưới sự đồng tình của quý đồng chí. Đàm phán đã trở thành một
phần quan trọng, chúng tôi muốn phân định ranh giới lãnh thổ và lãnh
hải, đây là một hồ sơ Biển Đông cho phép hợp thức hóa trước Liên Hiệp
Quốc, các bạn là người hổ trợ cho chúng tôi. Một điều nữa, tác động lên
lưng ngư dân Việt Nam, mục đích của nó có liên quan đến việc duy trì ổn
định trong khu vực Vịnh Bắc Bộ, cũng là một vấn đề chính trị mà nhà nước
Việt Nam phải thi hành đúng luật pháp? Hy vọng, Việt Nam bắt đầu tiến
hành ngay lập tức, sau khi cơ chế đàm phán thủy sản có hiệu lực, phân
giới cắm mốc Vịnh Bắc Bộ và thủy sản sẽ được giải quyết theo qui định
lịch sử đảng đã có từ trước vào thời Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai ký hiệp
ước, ngày 07 tháng 7 năm 1955, "Hiệp ước nhượng lãnh hải và Vịnh Bắc Bộ
Vạn Niên".
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Niên (阮怡年) đáp rằng:
− Đồng ý, trên cơ sở Trung Quốc thúc đẩy đàm phán phân định lãnh thổ,
phía Việt Nam sẵn sàng làm việc, cùng nhau đi về hướng tương lai. Ông
nói thêm: Việt Nam đã nhận thức đầy đủ các mối quan tâm của Trung Quốc,
trước nhất thỏa thuận phân giới cắm mốc đã được ký kết cùng một lúc với
nghề cá tại Vịnh Bắc Bộ, hai bên có khả năng tạo thành hợp tác khai thác
thủy sản. (Nguyễn Duy Niên đề nghị cá nhân hai đảng làm ăn chung).
Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương
Nghị (trái) và Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội Lý Gia Trung (Li Jiazhong).
Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Thúc đẩy hiệp định đánh bắt cá vùng Vịnh Bắc Bộ
Tháng 4 năm 2000, đàm phán phân định ranh giới Vịnh Bắc Bộ trong khuôn
khổ của Trung Quốc và Việt Nam, như đã phát động thành lập Nhóm chuyên
gia đàm phán thủy sản. Tuy nhiên, Việt Nam đã nhiều lần làm trì hoãn đàm
phán vì lý do kỹ thuật tư vấn, nội dung đàm phán khác nhau với Trung
Quốc sẽ không có lợi cho Việt Nam.
Ngày 14 tháng 9 năm 2000, Tiền Kỳ Tham đi New York tham dự Đại hội đồng
Liên Hợp Quốc lần thứ 55. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Niên bí mật
gặp tại trụ sở chính LHQ, hai bên trao đổi quan điểm, tập trung thảo
luận những vấn đề tồn tại về Vịnh Bắc Bộ và đưa ra công thức phân định
ranh giới theo chiều sâu đã đề nghị đàm phán lần trước.
Tiền Kỳ Tham cho rằng:
− Trong sự phân chia Vịnh Bắc Bộ, đã bước vào đàm phán ở giai đoạn quan
trọng. Việt Nam đồng ý Vịnh Bắc Bộ thành lập một khu vực đánh cá chung,
đó là một bước tiến quan trọng được thực hiện thành công trong cuộc đàm
phán vừa qua. Bây giờ, cả hai bên cần đẩy mạnh đàm phán về thỏa thuận
thủy sản, Việt Nam cần thiết phải đảm bảo các thỏa thuận phân giới cắm
mốc và ký kết thỏa thuận thủy sản cùng một lúc. Tôi cũng bày tỏ hy vọng
phía Việt Nam thực hiện càng sớm càng tốt quyết định chính trị về tỷ lệ
thu nhận chủ quyền cho cả hai vấn đề phân định ranh giới khu vực.
Nguyễn Duy Niên hăng hái bày tỏ đáp ứng nguyện vọng và tham gia cùng với
Tiền Kỳ Tham trong việc kêu gọi các phái đoàn Chính phủ và các bộ phận
của cả hai Nhóm tại Vịnh Bắc Bộ tăng cường công tác làm việc tốt hơn.
Tiền Kỳ Tham định hướng lại mục tiêu phương tiện cho hai nhà lãnh đạo
cấp Chính phủ hướng tới nỗ lực đàm phán. Nguyễn Duy Niên hoàn toàn đồng ý
hứa sẽ ký "Hiệp định phân định ranh giới lãnh hải" và "Hiệp định nghề
cá" trong vùng Vịnh Bắc Bộ, nay thuộc chủ quyền Trung Cộng.
Bộ Trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy Niên (trái) và Thứ trưởng Lê Công Phụng (黎功奉). Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Ngày 25 tháng 10 năm 2000, Trưởng phái đoàn chính phủ Trung Quốc Vương
Nghị (Wang Yi), và Trưởng phái đoàn Chính phủ Việt Nam Lê Công Phụng
(黎功奉), đồng tổ chức đàm phán không chính thức về Vịnh Bắc Bộ, đạt được
thỏa thuận sơ bộ về kế hoạch kiểm tra đường tuyến Vịnh Bắc Bộ, đàm phán
đã thực hiện được một bước đột phá quan trọng lãnh hải. Ngày hôm sau,
Vương Nghị và Lê Công Phụng gặp nhau ngoài nghị sự đàm phán cả hai ông
đồng khẳng định sự nhất trí, giúp hai bên phá vỡ bế tắc bấy lâu. Trong
đàm phán ngày hôm sau mang lại một biến động mới, các chuyên gia hai bên
trở lại làm việc với sự nhất trí, phù hợp nghị sự của hai cấp cao Chính
phủ đã tiến đến sự hình thành một đường biên phân định phổ biến.
Tiền Kỳ Tham quan tâm vấn đề nghề cá của ngư dân Trung Quốc, ông luôn
tìm hiểu quan điểm của đối tác, đem về Trung Quốc một chiến thắng lớn cả
hai mặt lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam. Ông thường thúc đẩy hai cơ
quan ngoại giao cùng nhau tiến bộ, đáng kể nhất trong đàm phán thủy sản,
gọi là giải pháp trọn gói "phân định ranh giới và nghề cá Vịnh Bắc Bộ".
Ngày 21 tháng 11 năm 2000, Nhóm chuyên gia của Trung Cộng trì hoãn đàm
phán Thủy sản, phản đối Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Niên chưa thúc
đẩy phân giới cắm cột mốc của Vịnh Bắc Bộ, đặc biệt trong quá trình đàm
phán đã phân định thủy sản và liên quan đến sinh cư của ngư dân Việt
Nam. Trung Quốc cho rằng, trong giai đoạn cuối của đàm phán ở thời điểm
quan trọng này, hai bên cần phải thúc đẩy mạnh mẽ mức độ cao chính trị,
bảo đảm ký kết và thỏa thuận phân định thủy sản.
Ngày 05 tháng 12, Trung Cộng tự phân định lãnh hải và thủy sản không
thông qua đàm phán, thời gian này Trung Cộng tung ra biểu đồ thực địa
theo ý của kẻ cướp. Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy Niên bình
thản không có nửa lời nào phản đối, lạnh nhạt với đất nước Việt, vì
Trung Cộng đe dọa công bố "bạch thư chính trị Việt Cộng", bởi Việt Cộng
xưa nay sống nhờ hơi thở của Trung Cộng, các nhà đàm phán Việt Cộng thấy
rõ điều này, cho nên đầu hàng trước áp lực, rõ ràng nhất Trung Cộng
hướng dẫn Việt Cộng, bảo sao làm vậy, ngồi nghiêm chỉnh trong bàn tròn
đàm phán, chọn lấy gật đầu làm điều cầu sống, bảo đảm đảng tồn tại.
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Niên trong bài phát biểu thay cho đa tạ,
lời đáp của các nhà lãnh đạo Việt Nam hổ trợ mạnh mẽ, thiết lập nghề
đánh bắt cá chung trong vùng Vịnh Bắc Bộ, hy vọng Trung Cộng lấy quyết
định để phía Việt Nam sẵn sàng làm mọi việc với Trung Cộng, hai bên tích
cực thảo luận bằng thái độ anh em và trên môi với những thỏa thuận hài
lòng tình đồng chí.
Ngày 13-đến 15 tháng 7 năm 1997, tổ chức đàm phán biên giới vòng thứ 5
tại Nhà khách Quốc gia Điếu Ngư Đài Bắc Kinh. "Hiệp ước biên giới đất
liền Trung-Việt", "Hiệp định mở rộng phân định Vịnh Bắc Bộ Việt Nam" và
"Hiệp định Việt Nam hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ". Tài liệu ảnh lưu:
Huỳnh Tâm.
Ngày 18 tháng 12, tại vùng Vịnh Bắc Bộ, các bộ phận của Nhóm chuyên viên
và công tác làm việc chung, trải qua 18 cuộc đàm phán đã nhất trí phân
định được lãnh hải và ngư trường trong Vịnh. Trưởng đoàn đại biểu của
hai Chính phủ đồng xác định lãnh hải của Việt Nam không đáng kể, vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Vịnh vẽ lại bản đồ đính kèm tọa
độ, địa lý theo những điểm có dân cư và văn bản Hiệp định Vịnh Bắc Bộ
đồng ý trên nguyên tắc phân định lại tất cả.
Cho đến nay, Trung Cộng mới xem xét đầy đủ những trường hợp có liên quan
đến phía miền Bắc Việt Nam và Vịnh Bắc Bộ, theo nguyên tắc Trung Cộng
ra giá thành, mọi thứ phải phù hợp lý luận công bằng theo kiểu cách Hán,
Việt Cộng chấp nhận thông qua trò chơi hiệp thương hữu nghị, tất cả
những cuộc đàm phán quan trọng ở giai đoạn cần thiết đã hoàn thành và
xác định ranh giới. Nay trong Vịnh Bắc Bộ tương đối ổn định ranh giới.
Lúc này, nhảy ra một Ban hội Thẩm sắp xếp lại ngư trường thủy sản, sau
khi phân định giải quyết ranh giới, bao gồm cả việc xác định các nguyên
tắc hợp tác lâu dài giữa hai thủy sản quốc gia, mô tả hơn 30.000 km²
thuộc Trung Cộng trong khu vực đánh cá chung biên giới và vùng chuyển
tiếp, nếu Việt Nam muốn soạn thảo hợp tác nghề cá tại Vịnh Bắc Bộ phải
theo văn bản hiệp ước.
Ngày 12-đến 14 tháng 12 năm 2000, tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Hà
Nội. Cả hai Bộ Ngoại giao Trung Cộng-Việt Cộng, chạy đua nước rút, đàm
phán hiệp định cho phần cuối cùng. Vương Nghị trưởng đoàn Ngoại giao
Trung Quốc và phía Việt Nam có Thứ trưởng Lê Công Phụng, chính thức đàm
phán lần thứ 3. Sau hai ngày đàm phán vấn đề Vịnh Bắc Bộ chủ yếu chính
phương thức thỏa thuận phân định biển, hai bên nhận ra phía Vịnh Bắc Bộ
và khu vực tổng thể không cân bằng lợi ích chung. Tài liệu ảnh lưu:
Huỳnh Tâm.
Việt Cộng tiếp nhận trái đắng hòa bình trên đôi môi Bắc Kinh.
Nhìn lại, Việt Cộng-Trung Cộng phân chia đất nước Việt Nam qua đàm phán
lãnh thổ biên giới đất liền và lãnh hải tại vùng Vịnh Bắc Bộ đã có quá
nhiêu mâu thuẫn bên trong đàm phán, gián tiếp cho phép Trung Cộng chủ
động lần lượt xoắn từ từ lấy trọn vẹn tài nguyên biển Việt Nam. Từ năm
1992 trở đi kết quả phân giới cắm mốc hoàn toàn bất thường, ai mạnh
người đó kiểm soát và thừa hưởng gia tài Việt Nam.
Sau khi "Kỷ yếu" bí mật Thành Đô 1990) có hiệu lực, Việt Cộng khởi động
"mất nước còn đảng" chấp hành mệnh lệnh 16 chữ vàng "ổn định lâu dài,
hướng tới tương lai, láng giềng tốt và hợp tác toàn diện" và nghiêm thủ
áp dụng lịch trình đàm phán theo thỏa hiệp: - 18 năm đàm phán biên giới
đất liền (1990-2008), 20 năm đàm phán Biển Đông (1990-2010), 30 năm đàm
phán thuộc quốc (1990-2020) [1].
Hôm nay chúng tôi xin trình bày trước 10 năm đàm phán Vịnh Bắc Bộ
(1990-2001), theo lịch trình đã đàm phán: 2 lần đàm phán cấp chuyên
viên, 7 lần đàm phán cấp Chính phủ, 3 lần đàm phán cấp Thứ trưởng, 3 lần
đàm phán cấp Nhóm chuyên gia, 6 lần đàm phán cấp Nhóm chuyên gia thủy
sản, 7 lần đàm phán cấp Nhóm chuyên gia bản đồ ngoài thực địa, 18 lần
đàm phán cấp Nhóm công tác phân định Vịnh Bắc Bộ. [2] Trung Cộng quá vui
mừng tiết lộ về chiến thắng phân định lãnh hải, lấy được vùng Vịnh Bắc
Bộ của Việt Nam, qua mưu sách mật độ thâm giao "Tình đồng chí, tình anh
em" và độc đáo trong lịch sử ngoại giao của Trung Cộng, nhờ những "mật
nghị" với Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Duy
Niên, Nông Đức Mạnh và Trần Đức Lương và hiện nay "10 hiệp ước" của
Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng v.v...
Ngày 24 tháng 12 năm 2000, Chủ tịch Việt Nam Trần Đức Lương chính thức
thăm Trung Quốc. Ngày 25, Giang Trạch Dân hội đàm chính thức với Trần
Đức Lương, hai nhà lãnh đạo đánh giá cao về biên giới. Sau cuộc hội đàm,
hai nguyên thủ quốc gia cùng tham dự buổi lễ ký kết 2 Hiệp ước "Hiệp
định Trung Quốc-Việt Nam phân định Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định hợp tác
nghề cá Vịnh Bắc Bộ".
Lễ ký kết được tổ chức tại Đại lễ đường Bắc Kinh. Bộ trưởng Ngoại giao
Việt Nam Nguyễn Duy Niên thay mặt chính phủ ký "Hiệp ước Trung Cộng-Việt
Cộng hợp tác đặc quyền kinh tế" và "Hiệp định phân định thềm lục địa".
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Trần Diệu Bang và Bộ trưởng Bộ Thủy sản Việt
Nam Tạ Quang Ngọc (Xie Guangyu) đã ký "Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa và Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hiệp định hợp
tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ".
Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị (L) và đối tác Thứ trưởng
Ngoại giao Việt Nam Vũ Dũng (R) dấu hiệu trên các tài liệu về việc phê
duyệt hiệp ước phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa trong Vịnh Bắc Bộ ký tại Hà Nội ngày 30 tháng 6 năm 2004. Tài liệu
ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Ngày 25 tháng 6 năm 2004. Sau khi ký kết những hiệp định, mỗi bên theo
quy định của pháp luật phê chuẩn công bố hiệu lực. Quốc hội Nhân dân
Trung Quốc lần thứ X, thông qua cuộc họp "Hiệp định phân định vùng Vịnh
Bắc Bộ". Trước đó, vào ngày 15, Quốc hội Việt Nam lần thứ XI phê chuẩn
thông qua 2 văn bản "Hiệp ước Trung Cộng- Việt Cộng hợp tác đặc quyền
kinh tế" và "Hiệp định phân định thềm lục địa".
Ngày 30 tháng 6 năm 2004 tại Hà Nội. Quan hệ Trung- Việt đàm phán biên
giới, người đứng đầu phái đoàn Trung Quốc, Thứ trưởng Ngoại giao Vương
Nghị và người đứng đầu phái đoàn Chính phủ Việt Nam Thứ trưởng Bộ Ngoại
giao Vũ Dũng trao đổi "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ" đã phê chuẩn.
Cùng ngày hai Bộ Ngoại giao trao đổi những điều ghi chú trong "Hiệp định
Việt Nam hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định phân định vùng Vịnh
Bắc Bộ", đồng thỏa thuận công bố hiệu lực.
"Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ mở rộng", hai bên Trung Quốc và Việt
Nam xác định chủ quyền tại ranh giới biển, còn lại các đường ranh giới
Vịnh Bắc Bộ từ cửa biển xuyên biên giới sông Bắc Luân, khoảng mở rộng về
phía Nam đã thỏa thuận niêm phong hàng hải tại phía Bắc của Vịnh, là
khoảng năm trăm (500) cây số.
"Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ mở rộng". Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Trung Cộng ngạo mạn, Việt Cộng quá đê nhục
Chuyển giao thế kỷ 21, thông qua các nỗ lực chung của Trung Cộng và Việt
Cộng, nay giải quyết thành công được hai vấn đề lớn về biên giới mà từ
lâu Trung Cộng tố cáo Việt Cộng trì trệ quan hệ song phương, tuyên bố:
− Ngày nay quan hệ song phương Trung-Việt sẽ phát triển sâu rộng biên
giới, phục vụ các lợi ích cơ bản và lâu dài cho nhân dân hai nước; "Hiệp
ước biên giới đất liền Trung-Việt" và "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ
mở rộng", đánh dấu hai nước hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác biên
giới đất liền và biên giới biển, mà còn tiếp tục làm phong phú thêm song
phương 16 chữ vàng "ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng
tốt và hợp tác toàn diện", (Trường kì ổn định, diện hướng vị lai, mục
lân hữu hảo, toàn diện hợp tác) [3] theo khuôn khổ ý nghĩa quan hệ thuộc
quốc, để thúc đẩy sự phát triển lành mạnh và ổn định quan hệ của hai
nước trong thế kỷ mới, đặt trên nền tảng vững chắc.
"Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ mở rộng" đã có hiệu lực, đánh dấu sự ra
đời một biên giới biển đầu tiên của Trung Cộng. Việt Cộng thông qua
tham vấn của Trung Cộng, giải quyết thành công giữa hai nước trong Vịnh
Bắc của vấn đề phân định biển, pháp luật của chế độ biển phù hợp với
thực hành hiện đại.
Hải giám Trung Cộng kiểm soát vùng Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Mở rộng phân định biển Vịnh Bắc Bộ Việt Nam, đã thể hiện đầy đủ lòng
người hàng xóm của Trung Cộng thông qua một "giải pháp thương lượng" [4]
với các vấn đề phân định biển, Việt Cộng chân thành có liên quan sâu
sắc với Trung Cộng, sẽ giúp tăng cường tin cậy lẫn nhau giữa Trung Cộng
và các nước láng giềng trong các đại dương xung quanh, thúc đẩy sự phát
triển của mối quan hệ của Trung Cộng với các nước láng giềng, quan trọng
đối với việc duy trì hòa bình và ổn định.
Việt Cộng để giải quyết đất đai biên giới, phía bắc Vịnh Bắc Bộ kinh
nghiệm cho thấy không tranh chấp khi phân định biển chỉ bằng cách tôn
trọng những cơ sở luật pháp quốc tế, có sự tham khảo thông lệ quốc tế,
tôn trọng lịch sử và khách quan sự thật, xem xét các lợi ích cơ bản và
lâu dài của nhân dân hai nước, tư vấn bình đẳng, hiểu biết lẫn nhau, tìm
kiếm công lý giải pháp công bằng và hợp lý để đạt được kết quả chiến
thắng liên tục.
Để đạt được một kết quả chiến thắng này nhờ Việt Cộng tôn trọng lịch sử
và thực tế của Trung Cộng. Ở đây, tôn trọng lịch sử và tôn trọng sự thật
khách quan không phải là mâu thuẫn nhưng mục đích bổ sung để hiểu tại
sao sự việc xảy ra, để hiểu rõ hơn tình hình thực tế, để làm rõ sự khác
biệt của Việt Cộng và tranh chấp, khác biệt và tranh chấp nội dung, tính
chất và mức độ thực hiện bản án chính xác thuận lợi để tìm giải pháp
tốt hơn. Tiêu chuẩn để đánh giá sự thành công của các cuộc đàm phán giữa
hai bên dựa trên lịch sử, địa lý, chủ quyền, quyền tài phán và quyền
lợi chính sách thực dụng, công bằng, hợp lý, hợp pháp, lợi ích của hai
bên đã chính thức hiệu lực và được duy trì hai nhà nước tốt. [5]
Nếu như Việt Cộng phổ biến những sự kiện lịch sử này thì hay biết mấy,
nếu "Bác" của đảng phát biểu như Trung Cộng vì quyền lợi của nhân dân,
tất nhiên quá tuyệt vời. Tại sau vậy, bởi vì đảng không có gì để thể
hiện lòng thành đối với nhân dân Việt Nam! Ôi rất tiếc nhân dân Việt Nam
đã quá thiệt thòi, đôi vai nặng trĩu chịu đựng kiếp người và đã mệt mỏi
ý chí, sống dưới chế độ vô hồn, tuy có chính phủ nhà nước Cộng sản cũng
như không bởi nó độc trị.
Cho đến nay đã có câu trả lời thỏa đáng, Việt Cộng thực sự đầu hàng
Trung Cộng, chấp nhận "đảng còn nước mất" để rồi ký vào "Hiệp ước biên
giới đất liền Trung-Việt" và "Hiệp định mở rộng phân định Vịnh Bắc Bộ",
do Trung Cộng chủ động soạn thảo và Việt Cộng vô tư ký!
Bài đã đăng:
_________________________________________
Chú thích:
[1] - 18年陆地边界谈判 (1990-2008年), 20年的谈判中海 (1990-2010), 30岁以下的联合国谈判 (1990-2020).
[2] - 10年谈判北部湾 (990-2001年) 的, 按照协商的时间表: 2谈判专家级, 7级政府的谈判, 3次副部长级会谈,
3倍的水平谈判团队专家介绍, 6级的渔业谈判专家小组, 7次野外地图上水平谈判小组, 北部湾的18倍, 工作组级别会谈划界。
[3] "长期稳定, 面向未来, 睦邻友好, 全面合作".
[4] Sự sống còn của một dân tộc trên căn bản đàm phán với đối phương,
không thể áp dụng "giải pháp thương lượng" đồng nghĩa chấp nhận nhượng
địa của Việt Nam cho Trung Cộng theo như lời Tiền Kỳ Tham tuyên bố "giải
pháp thương lượng". Sau đó Việt Cộng ngoan ngoãn cặm cụi thi hành, cho
thấy Việt Nam không còn chủ quyền quốc gia.
[5] Báo cáo Điện thoại: 010-64192948 ngư nghiệp Trung Quốc Command Center.
Bộ Nông nghiệp, Thủy sản và câu cá Harbor giám sát khu vực biển Nam Trung Hoa 020--87776584.
Tiến trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990 (Kỳ 7)
Huỳnh Tâm (Danlambao)
- Việt Nam có Vịnh Bắc Bộ là một vịnh nửa kín, được bao quanh bởi đất
liền giữa Việt Nam và đảo Hải Nam của Trung Quốc. Vịnh Bắc Bộ là tuyến
đường biển phía Tây Nam của Biển Đông, có diện tích khoảng 126.250 km2
(36.000 hải lý vuông), chiều ngang nơi rộng nhất khoảng 310 km (176 hải
lý), nơi hẹp nhất ở cửa Vịnh rộng khoảng 207,4 km (112 hải lý).
Bờ Vịnh Bắc Bộ thuộc 10 tỉnh, thành phố của Việt Nam với tổng chiều dài
763 km, Vịnh có hai cửa: eo biển Quỳnh Châu nằm giữa bán đảo Lôi Châu và
đảo Hải Nam với bề rộng 35,2 km (19 hải lý) và cửa chính của vịnh từ
đảo Cồn Cỏ (Việt Nam) tới đảo Hải Nam (Trung Quốc) rộng 207,4 km (112
hải lý).
Phần vịnh của Việt Nam có khoảng 2.300 đảo, đá ven bờ, đặc biệt có đảo
Bạch Long Vĩ nằm cách đất liền Việt Nam khoảng 110 km, cách đảo Hải Nam
Trung Quốc khoảng 130 km. Phía Trung Quốc có một số ít đảo nhỏ ở phía
Đông Bắc vịnh như đảo Vị Châu, Tà Dương.
Trước đó vào ngày 07 tháng 7 năm 1955. Hồ Chí Minh đã ký bán cho bành
trướng 35% Vịnh Bắc Bộ, gọi là "Hiệp ước nhượng lãnh hải và Vịnh Bắc Bộ
Vạn Niên" giá trị 10.000 năm, để xóa mất đường ranh giới biển của Hiệp
ước Pháp-Thanh (Thiên Tân 1885). Bành trướng không thể ngồi yên trước
một miến mồi Vịnh Bắc Bộ quá hấp dẫn, gây sóng giótình tình thêm phức
tạp là điều không trách khỏi.
Theo lời của Nguyễn Duy Niên tuyên bố:
− "Hiệp ước phân định Vịnh Bắc Bộ" đã ký tại Việt Nam lần này, Việt Nam
được hưởng 53,23% tổng diện tích của vịnh Bắc Bộ, Trung Quốc được hưởng
46,77%. Theo kết quả công bằng trong các cơ sở pháp lý và hoàn cảnh cụ
thể của Vịnh Bắc Bộ. Hiệp ước phân định Vịnh Bắc Bộ đã ký tại Việt Nam
cho phép mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc là một sự kiện quan trọng, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc quản lý Vịnh Bắc Bộ và duy trì sự ổn định
mở rộng vùng Vịnh Bắc Bộ, để tăng sự tin tưởng lẫn nhau và thúc đẩy hợp
tác toàn diện giữa hai nước để đóng góp thịnh vượng cho.....
Nói chung, đảng của Nguyễn Duy Niên tráo trở không thua "Bác", Vịnh Bắc
Bộ mà "Bác" bán trước đó là 35%, thế hệ sau của "Bác" bán thêm 12,77%,
nâng lên tổng số 46,77% về tài nguyên của bành trướng trong Vịnh Bắc Bộ.
"Hiệp ước phân định Vịnh Bắc Bộ" đã ký tại Việt Nam lần này, Việt Nam
chỉ được hưởng 53,23% tổng diện tích của vịnh Bắc Bộ; Vịnh Bắc Bộ mà
"Bác" bán trước đó là 35%, thế hệ sau của "Bác" bán thêm 12,77%, nâng
lên tổng số 46,77% về tài nguyên của bành trướng trong Vịnh Bắc Bộ. Tài
liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Vịnh Bắc Bộ là nơi lưu trữ tài nguyên thiên nhiên, có một trữ lượng dầu
khí, khí đốt tiềm năng phong phú, sinh vật, khoáng sản vô lượng "bạc
biển", một kho tàng tài nguyên chưa khai thác dưới lòng Vịnh, nó còn
nguyên sinh của địa cầu. Tiếp theo Việt Nam còn có hai trữ lượng thiên
nhiên ưu đãi lớn nhất Đông Dương, một Vịnh Bắc Bộ có nhiều ngư trường
hải sản và vựa lúa 6 tỉnh miền Nam Việt Nam.
Vịnh Bắc Bộ có vị trí chiến lược quan trọng, cũng là cửa ngõ giao lưu từ
lâu đời của Việt Nam ra thế giới, có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự
nghiệp phát triển kinh tế, thương mại quốc tế, ngoại giao, lẫn quốc
phòng an ninh của Việt Nam.
Trước những năm 1970, Vịnh Bắc Bộ bởi thuộc chủ quyền của Việt Nam theo
Hiệp ước Pháp-Thanh (Thiên Tân 1885). Ngư dân Việt Nam đánh bắt cá trong
Vịnh Bắc Bộ gọi là ngư trường Đông, ngư dân Trung Quốc đánh bắt cá bên
ngoài đảo Hải Nam gọi là ngư trường phía Tây biển Đông. Dân cư trong
Vịnh có câu ví von: Ngư dân Việt Nam-Trung Quốc sinh cư đôi miền "nước
sông-biển không xâm phạm lẫn nhau". Hai cộng đồng ngư dân Việt-Hoa chưa
bao giờ hợp tác đánh bắt cá với nhau trong Vịnh Bắc Bộ. Tuy Hồ Chí Minh
có bán vùng đảo Bạch Long Vĩ và một phần Vịnh giá trị 10.000 năm, nay
"Bác" đã có tội cướp nước không dung thứ, hết đời "Bác" đảng tiến hành
bán cửa biển cửa sông của Vịnh Bắc Bộ. [1]
Đến những năm 1970, quan hệ Trung-Việt Nam xấu đi, Trung Cộng có nhiều
lợi thế thượng phong đã từng viện trợ toàn bộ chiến tranh cho Việt Cộng,
và chiến thắng nhờ xâm lược Việt Nam 1969 tại biên giới, chiếm Hoàng Sa
Biển Đông 1974, ngày 17 tháng 2 năm 1979 chiếm biên giới 6 tỉnh phía
Bắc, chiếm tranh Lão Sơn 1984, chiếm đảo Gạc Ma Trường Sa Biển Đông 1988
và Hội nghị bí mật Thành Đô 1990, Việt Cộng khởi động bước đầu rước
Trung Cộng vào Vịnh Bắc Bộ chiếm vùng đảo Bạch Long Vĩ. Loạn tình thế
đưa ngư dân vào tranh chấp khai thác vùng Vịnh, cộng đồng ngư dân Trung
Quốc trang thiết bị tàu đánh bắt cá chuyên nghiệp, một thách đố mới đem
đến bất lợi cho ngư dân Việt Nam. Trung Cộng cũng đã có máu bành trướng,
bắt đầu chơi trội luật pháp rừng Cộng sản, sử dụng biện pháp kiểm soát
ngư dân Việt Nam, bắn phá ghe thuyền, tịch thu tàu đánh cá, thảm sát ngư
dân trong thềm lục địa Việt Nam, một lịch sử biển cả hãi hùng nhất nhân
loại tại Vịnh Bắc Bộ chưa ai biết đến, bao nhiêu tội ác đó người Việt
Cộng đừng vội cho mình có tính chính đáng khai tử dân tộc Việt Nam và Hồ
Chí Minh là nguồn gốc sự khởi sinh những tội ác đó.
Sau những năm 1990, quan hệ Trung-Việt được cải thiện, nhưng hai bên
mượn ngư dân làm phương tiện tranh chấp, Trung Cộng thừa cơ hội đảng
"Bác" tự nhu nhược tấn công tới tấp, từ đó tiến hành cướp Biển Đông và
kết quả thằng anh em Việt Cộng chiến thắng vẻ vang, đất nước Việt Nam
ngã gục trong vòng tay Việt Cộng, một linh hồn sống của Trung Cộng từ
khi có đảng có "Bác".
Năm 1974, Trung Quốc và Việt Nam bắt đầu tổ chức các cuộc đàm phán về
phân định Vịnh Bắc Bộ, đặc biệt chiến lược của Cộng sản "bình thường hóa
quan hệ song phương". Năm 1999 hai nước ký hiệp ước đầu tiên về biên
giới đất liền để tiến đến "bình thường hóa song phương", nói chung mỗi
lần ký hiệp ước Việt Nam phải dâng hiến đất cho Hán. Sau đó gia tốc đàm
phán Vịnh Bắc Bộ, Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Biển Đông. Việt Cộng đã hứa
thi công cắm mốc phân định lãnh thổ, lãnh hải và Biển Đông trước năm
2020.
Buổi lễ ký phê chuẩn Hiệp ước phân định Vịnh Bắc Bộ. Thứ trưởng Ngoại
giao Trung Quốc Vương Nghị (L) và đối tác Thứ trưởng Ngoại giao Việt
Nam Vũ Dũng (R). 3 tài liệu được phê duyệt cùng ngày gồm "Hiệp ước phân
định lãnh hải", "vùng đặc quyền kinh tế" và "thềm lục địa trong Vịnh Bắc
Bộ". Ký ngày 30 tháng 6 năm 2004 tại Hà Nội Việt Nam. Tài liệu ảnh lưu:
Huỳnh Tâm.
Chùng tôi xin gửi đến công luận, tìm hiểu nguyên nhân Việt Cộng tạo ra
những điêu linh cho dân tộc Việt Nam mang thân phận nhục hèn, dưới góc
độ vô căn "bình trị thiên" của Việt Cộng. Và hôm nay một trong nhiều hồ
sơ bằng sự thật đã chứng minh Việt Nam nhượng lãnh thổ, lãnh hải và Biển
Đông cho Trung Cộng. Hy vọng công luận Việt Nam bình tĩnh trước khi tự
giải mã:
Trung Quốc-Việt Nam, Hiệp định phân chia lãnh hải, bao gồm cả lãnh thổ, vùng Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông
Việt Cộng lưu bản Việt ngữ:
Ngày 25 tháng 12 năm 2000, hai nước đã ký hiệp ước "Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiệp ước trong lãnh hải
Vịnh Bắc Bộ, vùng đặc quyền kinh tế" và "hiệp ước phân định ranh giới
thềm lục địa". Ngoài lời mở đầu của hiệp ước, có đính kèm bản đồ xác
minh 11 điểm đảo, lần đầu tiên xác nhận sự phân chia phía Bắc của Vịnh
Bắc Bộ có cả hai cơ sở pháp lý và ranh giới, rõ ràng nhất về phạm vi của
Hiệp định này, thứ 2-5 với 21 xác định điểm quan trọng phân định ranh
giới lãnh hải ở phía Bắc Vịnh, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa;
hiệp ước cũng xác định dầu khí qua biên giới, khí đốt và phát triển tài
nguyên khoáng sản khác, cũng như các nguyên tắc của hiệp ước về các vấn
đề bảo tồn và sử dụng tài nguyên sinh học. Bây giờ, hai cơ quan lập pháp
đã thông qua hiệp ước này đánh dấu biên giới biển ở Vịnh Bắc Bộ theo mô
tả.
Ngày 25 tháng 6 năm 2004, Cuộc họp của Quốc hội Nhân dân Trung Quốc lần
thứ X, đã bỏ phiếu thông qua quyết định phê chuẩn hiệp định "Cộng hòa
Nhân dân Trung Quốc và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về hợp tác
trong lãnh hải Vịnh Bắc Bộ, vùng đặc quyền kinh tế" và "hiệp ước phân
định ranh giới thềm lục địa". Trước đó, Việt Nam đại hội XI của trong
cuộc họp thứ 5, vào ngày 15 tháng 6 đã thông qua nghị quyết phê chuẩn
thỏa thuận các hiệp ước. Hiện nay, Trung Quốc và Việt Nam đang hoàn tất
thủ tục tố tụng, có hiệu lực pháp luật của "Hiệp định phân định Vịnh Bắc
Bộ".
Trung Cộng kiểm soát chặt chẽ phân định lãnh hải và thủy sản.
Tranh chấp đánh bắt cá là một tranh chấp quan trọng giữa Trung Quốc và
Việt Nam, nay mở rộng Vịnh Bắc Bộ, vì vậy ngoài việc xác định ranh giới,
việc sắp xếp thủy sản là một phần quan trọng đàm phán biên giới của khu
vực phía Bắc Vịnh. Hai bên sẽ có được phân định và giải quyết vấn đề
thủy sản gắn liền với lợi ích của cả hai bên để tìm kiếm một điểm thỏa
hiệp, được ký kết cùng một thời điểm "trong Hiệp định hợp tác nghề cá
Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ". Sau khi có hiệu lực
"Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định hợp tác nghề cá", điều
kiện các lực lượng hai bên thi hành.
Việc ký kết những hiệp ước, cho sự lợi ích ổn định lâu dài của biên giới
giữa Trung Quốc và Việt Nam trong khu vực Vịnh Bắc Bộ, cùng nhau thúc
đẩy phát triển lành mạnh của quan hệ song phương phù hợp với lợi ích căn
bản của Trung Quốc. Tuy nhiên, phía Việt Nam phải rút số lượng lớn tàu
cá ra khỏi ngư trường truyền thống, cũng là tác động phát triển 3 tỉnh
thủy sản Quảng Đông, Quảng Tây và Hải Nam của Trung Quốc. Trên 6000 tàu
thuyền đánh bắt cá hoạt động ở phía Tây vùng Vịnh, và bây giờ họ được
quyền trở lại phần phía Đông của vùng biển Vịnh Bắc Bộ, riêng tỉnh Hải
Nam có 59% tàu thuyền đánh bắt cá trong vùng biển Vịnh Bắc Bộ, theo
"Hiệp định hợp tác nghề cá", Hải Nam lên kế hoạch từ năm 2003, mỗi năm
phát triển 570 thuyền đánh bắt cá. 2002-2006 có 1,2 triệu ngư dân và
phát triển 2471 thuyền đánh cá. Để đáp ứng với sự thay đổi này, nhà nước
Trung Cộng đã xây dựng kế hoạch ngư dân, một phần kinh phí dành xây
dựng cơ sở ngư nghiệp.
Trung Cộng cho ra đời một kế hoạch ranh giới ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ,
Việt Cộng chấp nhận dâng hiến Vịnh Bốc Bộ. Từ đó Việt Nam có Biển cũng
như không, ngày nay nhân dân không có cá để ăn, muốn ăn phải mua cá của
ngư dân Hán. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Trung Cộng làm chủ quần đảo Trường Sa.
Vấn đề phân định ranh giới giữa Trung Quốc và Việt Nam, bao gồm cả đất
liền, vịnh Bắc Bộ và Biển Đông thành ba phần. Đàm phán biên giới đất
liền Việt Nam kéo dài 22 năm, vào ngày 30 tháng 12 năm 1999 đã ký "Hiệp
ước biên giới đất liền Việt-Trung". Đến cuối năm 2003, quá trình phân
giới cắm mốc hơn một nửa đã được dựng lên, hai bên phấn đấu để xác định
nửa còn lại của năm nay, các những cột mốc lớn thay cho đài tưởng niệm.
Cho đến nay, lãnh hải đang tranh chấp tại vùng biển Biển Đông. Vào năm
1995 phía Việt Nam đã thành lập một tiểu tổ chuyên gia trên biển. Cuộc
đàm phán về tranh chấp vấn đề quần đảo Trường Sa. Ban tư vấn hàng hải
hiện nay vẫn tiếp tục hoạt động. Tuân thủ các nguyên tắc của cơ chế, các
vấn đề phía trước đã qui định, phấn đấu thông qua đàm phán hòa bình và
tìm ra giải pháp lâu dài.
Bản phối kế hoạch ranh giới lãnh thổ và ranh giới trên đường Biển Đông 1/9 điểm.
Điểm 1 quan trọng vĩ độ 21 độ 28 phút 12,5 giây, kinh độ 108 độ 06 phút 04.3 giây;
Điểm 2 quan trọng vĩ độ 21 độ 28 phút 01,7 giây, kinh độ 108 độ 06 phút 01,6 giây;
Điểm 3 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 50,1 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 57,7 giây;
Điểm 4 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 39,5 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 51,5 giây;
Điểm 5 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 28,2 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 39,9 giây;
Điểm 6 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 23,1 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 38,8 giây;
Điểm 7 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 08,2 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 43,7 giây;
Điểm 8 quan trọng vĩ độ 21 độ 16 phút 32 giây kinh độ đông 108 độ 08 phút 05 giây;
Điểm 9 quan trọng vĩ độ 21 độ 12 phút 35 giây kinh độ đông 108 độ 12 phút 31 giây;
Vùng đặc quyền kinh tế của Trung Cộng:
Điểm 10 ranh giới vĩ độ 20 độ 24 phút 05 giây kinh độ đông 108 độ 22 phút 45 giây;
Điểm 11 ranh giới vĩ độ 19 độ 39 phút 33 giây kinh độ đông 107 độ 55 phút 47 giây;
Điểm 12 ranh giới vĩ độ 19 độ 39 phút 33 giây kinh độ đông 107 độ 31 phút 40 giây;
Điểm 13 ranh giới vĩ độ 19 độ 25 phút 26 giây kinh độ đông 107 độ 21 phút 00 giây;
Điểm 14 ranh giới vĩ độ 19 độ 25 phút 26 giây kinh độ đông 107 độ 12 phút 43 giây;
Điểm 15 ranh giới vĩ độ 19 độ 16 phút 04 giây kinh độ đông 107 độ 11 phút 23 giây;
Điểm 16 ranh giới vĩ độ 19 độ 12 phút 55 giây kinh độ đông 107 độ 09 phút 34 giây;
Điểm 17 ranh giới vĩ độ 18 độ 42 phút 52 giây kinh độ đông 107 độ 09 phút 34 giây;
Điểm 18 ranh giới vĩ độ 18 độ 13 phút 49 giây kinh độ đông 107 độ 34 phút 00 giây;
Điểm 19 ranh giới vĩ độ 18 độ 07 phút 08 giây kinh độ đông 107 độ 37 phút 34 giây;
Điểm 20 ranh giới vĩ độ 18 độ 04 phút 13 giây kinh độ đông 107 độ 39 phút 09 giây;
Điểm 21 ranh giới vĩ độ 17 độ 47 phút 00 giây kinh độ đông 107 độ 58 phút 00 giây;
Phía Trung Cộng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhân dân toàn quốc quyết định
phê duyệt "Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam về hiệp ước trong lãnh hải Vịnh Bắc Bộ, vùng đặc quyền kinh tế
và hiệp ước phân định thềm lục địa".
Hiệp ước thông qua 25 tháng 6 năm 2004.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhân dân toàn quốc lần thứ X đã quyết định họp
lần thứ X: chấp thuận của Bộ trưởng Ngoại giao Đường Gia Triền thay mặt
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào ngày 25 tháng 12 năm 2000, ký tại
Bắc Kinh với nước "Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, hợp tác với Trung
Quốc", phân chia lãnh hải trong Vịnh Bắc Bộ, cùng 2 Hiệp ước "Đặc quyền
kinh tế vùng Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp ước phân định thềm lục địa".
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc hợp
tác trong lãnh hải Vịnh Bắc Bộ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
thỏa thuận theo phân định.
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (sau
đây gọi là "các Bên ký kết"), nhằm củng cố và phát triển quan hệ hữu
nghị truyền thống và láng giềng tốt mối quan hệ giữa hai nước và dân
tộc, để duy trì và thúc đẩy sự ổn định, phát triển ở phía Bắc Vịnh, tôn
trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nguyên tắc không xâm lược
(nonaggression) lẫn nhau, không can thiệp công việc nội bộ của nhau,
bình đẳng và cùng có lợi, sống chung hòa bình dựa trên các nguyên tắc
của tinh thần hiểu biết lẫn nhau và tham vấn thân thiện, giải pháp công
bằng cho vấn đề phân chia tinh thần Vịnh Bắc Bộ, đồng ý như sau:
Điều khoản I
Đầu I - Vào năm 1982, theo các Chính phủ đã ký kết "Công ước Liên Hợp
Quốc về Luật biển" [2], công nhận những nguyên tắc của luật pháp quốc tế
và thực tiễn quốc tế, trong việc xem xét đầy đủ của tất cả các trường
hợp có liên quan của vịnh Bắc Bộ, dựa trên nguyên tắc công bằng, thông
qua hiệp thương hữu nghị để xác định hai nước chủ quyền vùng lãnh hải
phía Bắc Vịnh, các đường phân chia giữa các vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa.
Đầu II - Trong Hiệp định này, "Vịnh Bắc Bộ" có nghĩa là phía Bắc của
Trung Quốc và Việt Nam, hai lãnh thổ đất ven biển, bán đảo Lôi Châu đảo
Hải Nam phía Đông Trung Quốc và phía Tây bờ biển đất liền Việt Nam bao
quanh bởi vịnh nửa kín, ranh giới phía Nam của nó có kể từ khi tọa độ
địa lý của các vĩ độ 18 độ 30 phút 19 giây, kinh độ đông 108 độ 41 phút
17 giây, của đảo Oanh Ca Hải Nam Trung Quốc, trên miệng của rìa ngoài
cùng của những điểm nổi bật ở Việt Nam bằng cách bờ biển Việt Nam mờ
nhạt với tọa độ địa lý vĩ độ 16 độ 57 phút 40 giây, kinh độ 107 độ kết
nối 08 phút thẳng giữa điểm 42 giây. Các bên đã ký kết xác định phạm vi
của khu vực này tạo thành hiệp ước phân định lãnh hải.
Điều khoản II
Các Bên ký kết đồng ý rằng hai vùng lãnh hải trong Vịnh Bắc Bộ, vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa ranh giới bao gồm 21 điểm ranh giới sau
tuần tự kết nối trong một đường thẳng để xác định tọa độ địa lý của nó
như sau:
Điểm 1 quan trọng vĩ độ 21 độ 28 phút 12,5 giây, kinh độ 108 độ 06 phút 04.3 giây;
Điểm 2 quan trọng vĩ độ 21 độ 28 phút 01,7 giây, kinh độ 108 độ 06 phút 01,6 giây;
Điểm 3 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 50,1 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 57,7 giây;
Điểm 4 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 39,5 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 51,5 giây;
Điểm 5 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 28,2 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 39,9 giây;
Điểm 6 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 23,1 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 38,8 giây;
Điểm 7 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 08,2 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 43,7 giây;
Điểm 8 quan trọng vĩ độ 21 độ 16 phút 32 giây kinh độ đông 108 độ 08 phút 05 giây;
Điểm 9 quan trọng vĩ độ 21 độ 12 phút 35 giây kinh độ đông 108 độ 12 phút 31 giây;
Điểm 10 quan trọng vĩ độ 20 độ 24 phút 05 giây kinh độ đông 108 độ 22 phút 45 giây;
Điểm 11 biển giới vĩ độ 19 độ 57 phút 33 giây kinh độ đông 107 độ 55 phút 47 giây;
Điểm 12 biển giới vĩ độ 19 độ 39 phút 33 giây kinh độ đông 107 độ 31 phút 40 giây;
Điểm 13 biển giới vĩ độ 19 độ 25 phút 26 giây kinh độ đông 107 độ 21 phút 00 giây;
Điểm 14 biển giới vĩ độ 19 độ 25 phút 26 giây kinh độ đông 107 độ 12 phút 43 giây;
Điểm 15 biển giới vĩ độ 19 độ 16 phút 04 giây kinh độ đông 107 độ 11 phút 23 giây;
Điểm 16 biển giới vĩ độ 19 độ 12 phút 55 giây kinh độ đông 107 độ 09 phút 34 giây;
Điểm 17 biển giới vĩ độ 18 độ 42 phút 52 giây kinh độ đông 107 độ 09 phút 34 giây;
Điểm 18 biển giới vĩ độ 18 độ 13 phút 49 giây kinh độ đông 107 độ 34 phút 00 giây;
Điểm 19 biển giới vĩ độ 18 độ 07 phút 08 giây kinh độ đông 107 độ 37 phút 34 giây;
Điểm 20 biển giới vĩ độ 18 độ 04 phút 13 giây kinh độ đông 107 độ 39 phút 09 giây;
Điểm 21 biển giới vĩ độ 17 độ 47 phút 00 giây kinh độ đông 107 độ 58 phút 00 giây.
Điều khoản III
Điều I - Các qui định của Hiệp định, điểm ranh giới đầu tiên đến 9 điểm
đường biên giới phân chia giữa hai nước trong ranh giới lãnh hải trong
Vịnh Bắc Bộ.
Điều II - Theo đoạn đầu tiên của đường ranh giới lãnh hải phân chia hai
nước theo hướng thẳng đứng trên vùng lãnh hải, đáy biển và lòng đất dưới
đáy.
Điều III - Trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, bất kỳ thay đổi
địa hình không thay đổi điểm quan trọng đầu tiên đến 7 điểm ranh giới
quy định trong đoạn đầu tiên của văn bản này, theo ranh giới lãnh hải
giữa hai nước.
Điều khoản IV
Hiệp định, thứ hai theo yêu cầu của phần 9 vòng tròn trỏ đến các điểm
quan trọng của các điểm 21 là đường phân chia giữa hai nước ở phía Bắc
Vịnh vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Điều khoản V
Điều II - Theo yêu cầu của các điểm ranh giới đầu tiên đến 7 điểm của
hai đường tròn ranh giới lãnh hải với các đường màu đen vẽ trên 2 bên ký
kết hợp đồng hợp tác quy mô hệ thống đo cho 10.000 của cảng sông Bắc
Luân, bản đồ chuyên đề các điểm ranh giới đầu tiên 7-21 điểm giữa hai
nước tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ranh
giới với một đường màu đen, âm mưu của các Bên ký kết khiến cùng đo quy
mô 1/500000 Vịnh Bắc Bộ trên toàn bản đồ. Trên đường thẳng của đất liền.
Sông Bắc Luân trên bản đồ chuyên đề và phía Bắc Vịnh vẽ hình đầy đủ của Hiệp định này. Itrf-96 sử dụng bản đồ tọa độ.
Điều II - Hiệp định cung cấp cho các tọa độ địa lý của tất cả các tầng
lớp xã hội là tất cả các vị trí trên số tiền lấy từ bản đồ. Hiệp định
này chia đường vẽ trên bản vẽ của Hiệp định này, chỉ nhằm mục đích minh
họa.
Điều khoản VI
Các Bên ký kết sẽ tôn trọng lẫn nhau được xác định theo quy định của
Hiệp định này, hai vùng lãnh hải tương ứng trong vùng Vịnh Bắc Bộ, vùng
đặc quyền kinh tế, chủ quyền thềm lục địa và chủ quyền tài phán.
Điều khoản VII
Nếu bất kỳ dầu khí và khí đốt, khoáng sản khác điều Hiệp định biên độ mở
rộng kiến tạo, các bên sẽ xây dựng hoặc thông qua tham vấn thân thiện
đối với tiền gửi của việc chia sẻ hiệu quả nhất và công bằng của các
thỏa thuận phát triển để phát triển doanh thu [3].
Điều khoản VIII
Các Bên đồng ý tham vấn về việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên sinh
học ở vùng Vịnh Bắc Bộ và phát triển bền vững và các vấn đề liên quan
về hợp tác song phương trong vùng đặc quyền kinh tế của miền Bắc Vịnh
bảo tồn tài nguyên sinh học, quản lý và sử dụng.
Điều khoản IX
Theo thỏa thuận giữa hai nước trên các vùng lãnh hải phía Bắc vịnh, vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phân định ranh giới giữa các bên về
các quy tắc của pháp luật quốc tế về vị trí các luật biển không có bất
kỳ ảnh hưởng hoặc làm phương hại.
Điều khoản X
Đối với các bên có tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng
Hiệp định này, khi phát sinh phải được giải quyết thông qua hiệp thương
hữu nghị và đàm phán.
Điều khoản XI
Hiệp định này phải được sự chấp thuận của các Bên ký kết, và ngày hiệu
lực lúc trao đổi văn kiện đã phê chuẩn của đại diện Chính phủ. Phê chuẩn
tại Hà Nội và hai bên đồng hoán đổi cho nhau.
Hiệp định này làm thành 2 bản
Ngày 25 tháng 12 năm 2004 tại Bắc Kinh.
Mỗi bản có cả hai ngôn ngữ Trung Quốc và Việt Nam, hai văn bản giá trị như nhau.
Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc (中华人民共和国)
Ngoại trưởng Trung Quốc
(Ký tên)
Đường Gia Triền (唐家璇)
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (越南社会主义共和国)
Ngoại trưởng Việt Nam
(Ký tên)
Nguyễn Duy Niên (阮怡年)
Tài liệu này liên quan một Ủy ban Thường vụ Quốc hội Nhân dân Toàn quốc
phê duyệt "Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam về hiệp ước lãnh hải Vịnh Bắc Bộ", "vùng đặc quyền kinh tế" và
"hiệp ước phân định ranh giới thềm lục địa".
Vùng thủy sản phổ biến trong hải đồ ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Trung Cộng-Việt Cộng lưu 2 bản Việt-Hoa ngữ
中国与越南, 协议的领土划分,
包括境内, 北部湾和中国南海.
(拯救中国共产党中国:
__________________________________
Bài đã đăng:
Chú thích:
[1] Nhân dân Việt Nam muốn biết Hiệp ước hãy tìm đọc tài liệu 10 Hiệp
ước bán cửa biển cửa sông của Vịnh Bắc Bộ của Trương Tấn Sang và Tập Cận
Bình.
[2] Trung Cộng không chứng minh được chữ ký của "Công ước Liên Hợp Quốc
về Luật biển", xác nhận điều này, tất cả chỉ là một dối trá giữa hai
đảng Trung Cộng và Việt Cộng.
No comments:
Post a Comment