HUẾ OAN KHIÊN qua ba bài thơ củaHUY PHƯƠNG
*
TUỆ CHƯƠNG HOÀNG
LONG HẢI
Huy Phương làm thơ không nhiều. Qua báo chí và các web-site, người
ta đọc văn ông nhiều hơn. Lại nữa, ông cũng đã từng xuất bản hai tập văn:
“Nước Mỹ Lạnh Lùng” và mới đây “Đi Lấy Chồng Xa” nên người ta đã quên ông là
một nhà thơ.
Tôi chưa đọc hết văn của ông, nhưng thơ thì có đọc một số bài; và
về thơ, tôi thấy ông là người có tài (1), đọc thơ ông nhiều lần tôi rất xúc
động.
Ông quê ở Huế, nơi ngày xưa thuộc hai châu Ô và Lý (Còn gọi là Rí).
“Hai châu Ô-Rí vuông ngàn
dặm,
Một gái thuyền quyên đáng mấy mươi.”
Người ta quý trọng vùng đất lấy được từ Chiêm Thành và xem nhẹ
thân phận của Công Chúa Huyền Trân, chịu về làm vợ Chế Mân để thu về hai vùng
đất Ô-Lý trên cho nước Việt. Tuy nói rằng cái giá của một gái thuyền quyên
không bằng cái giá của đất hai châu nhưng trong lòng người Việt ai lại chẳng
ngưỡng mộ và nhớ ơn sự hy sinh của Huyền Trân mở mang bờ cõi.
Theo một vài sử liệu, Huế thuộc châu Ô ngày xưa (1). Vậy thì người
ta nên nhớ ơn vị Công Chúa ấy.
Huy
Phương có một cái nhìn khác. Ông nhìn vấn đề qua cái “nghiệp số” trong công
trạng Huyền Trân. Cái “nghiệp số” (Nói theo nhà Phật) ông nói, còn đeo đẳng
công chúa cho tới bây giờ, còn mang nợ với dân Hời, có thể vì Huyền Trân đã
không cùng chết với chồng khi Chế Mân qua đời theo tục lệ người Hời hồi ấy.
Cái “nghiệp số” ấy còn đấy, trong cảnh bại vong suy tàn của dân Hời và trong
nhiều tang thương đoạn trường của Huế. Cái nghiệp còn đó, Huyền Trân chưa siêu
thoát được mà chúng ta, con cháu của bà, bảy trăm năm sau Huyền Trân cũng lận
đận như cuộc đời công chúa vậy.
Vì thế mà Huế chịu nhiều tang thương.
Trong quá trình lịch sử mấy trăm năm qua, có thể nói Huế chịu nhiều
tang thương hơn nơi đâu hết trong lãnh thổ Việt
Nam, từ
nam chí bắc. Trong viễn tượng đó, qua cách nhìn của Huy Phương, tuy chỉ là nói
qua trong vài câu thơ mà đã thật tinh tế và sâu sắc, khiến người đọc đọc những
câu thơ ấy, hiểu lịch sử Huế, không khỏi giật mình cho cái “nghiệp” của Huế, của
Huyền Trân và con cháu của bà.
Thật vậy, nhìn lại lịch sử, Huế chính là nơi phân ly giành giật
trong “Nam Bắc Phân Tranh”, là nơi “Tứ nguyệt tam vương”, là nơi “Thất thủ kinh
đô”, là chiến trường của Pháp Việt chiến tranh (1945-54), là tang tóc Mậu Thân,
và cuối cùng, tháng Ba/ 1975, Huế thất thủ. Tất cả những biến cố đau thương đó,
Huy Phương gói gọn trong hai câu thơ, đọc lên nghe buồn và xót xa:
Khi tôi trở lại kinh thành
cũ
Dâu
bể tang thương đã một thời
“Đã một
thời”.
Vậy thì mai đây, Huế còn tang thương nữa chăng hay vì cái “nghiệp” của Huyền
Trân chưa dứt thì tang thương ấy vẫn còn tiếp diễn?
Ông
viết
rất thật và rất bình thường:
"Kinh thành cũ”, “tang
thương dâu bể”.
Kinh thành cũ là cố đô Huế, là nơi, nói như Bà Huyện
Thanh
Quan: Có “lối xưa”, có “hồn thu thảo”, là đền đài miếu mạo, lăng tẩm chìm đắm
trong cảnh “tịch dương”. Có lẽ khi Huy Phương lớn lên, cảnh vua quan xe ngựa
không còn, nhưng trong khung cảnh một cố đô trầm lắng, im lìm, cộng thêm với
quang cảnh Huế đa tình, lãng mạn, đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn
ông, làm cho ông mang một nỗi trầm u:
“Nỗi
buồn tôi, nỗi buồn
lăng tẩm”.
Ai từng ở Huế hy vọng sẽ cảm nhận được
“Nỗi buồn lăng
tẩm”
như Huy Phương. Đó là nỗi buồn “tuyệt tự”, tức là chẳng còn ai hương khói, chẳng
còn ai chăm sóc lăng tẩm, phần mộ của vua chúa, hoàng hậu, cung phi mỹ nữ, là
khung cảnh tiêu điều âm u vắng lặng trong Đại Nội, trên lăng Tự Đức, lăng Gia
Long, Minh Mạng, v.v… Trong đời thường thì tương lai tiếp nối quá khứ. Ở đây thì
quá khứ còn đấy, nhưng tương lai thì không. Không tương lai thì cái tội đó lớn
lắm: “Bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại”. Đi qua những con đường rợp bóng mù u
trong thành nội, nhìn khung cảnh Đại Nội vắng vẻ, nhìn lăng tẩm im lìm, khó có
ai không nghĩ tới quá khứ, thậm chí như Bà Huyện Thanh Quan, khi thấy cảnh Thăng
Long vắng lặng, thì tưởng tới “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo”. Huế cũng vậy, hồn
thu thảo đó hiển hiện ra đâu đó, không chỉ ở trên những bãi xanh mướt cỏ trước
cửa Ngọ Môn mà cả trên những thành quách âm u, những sân chầu hiu quạnh và cả
trong tiếng mưa rả rích đêm đêm trên những mái ngói im lìm như tiếng ai gọi hồn
cung nữ, gọi hồn người đã khuất vì chiến trận từ những ngày Pháp bắt đầu xâm
lăng nước Việt. Nỗi buồn riêng của một triều đại suy tàn, nỗi buồn chung của cả
một đất nước, một dân tộc hết đời nô lệ thì tới phân ly vì chiến tranh. Đó chính
là “Nỗi buồn lăng
tẩm”
của Huy
Phương vậy.
Mang
trong lòng “Nỗi buồn
lăng tẩm ấy”
cùng với những tang tương dâu bể và chia ly đeo đẳng, ông lê gót trên con đường
đời gian nan phiêu bạt. Biến đổi tiếp nối biến đổi, chia ly tiếp nối chia ly và
tang thương lại tiếp nối tang thương, khiến ông nghĩ tới cái “nghiệp” của người
thuở trước, cái “nghiệp” của người đời sau, và nói chung, cái “nghiệp của Huế”
khiến ông phải ngậm ngùi nghĩ tới Huế của ông:
Em đã phai tàn bao xuân sắc
Nước non ngàn dặm thuở ra đi
Châu Ô, châu Lý mà chi nữa
Đất
đã đem về nỗi chia ly.
Sống là tìm kiếm hạnh phúc. Ông Gia-Cốp trong Cựu Ước có đem dân tộc
Do Thái lang thang trong vùng sa mạc cũng chỉ là đi tìm đất hứa. Khi mở cuộc Nam
Tiến, gả Huyền Trân Công Chúa cho vua Chiêm, vua Trần Anh Tông cũng chỉ có một
mục đích: Tìm đất cho những lưu dân. Ai ngờ, cái “nghiệp” không giữ lời của
Huyền Trân ngày ấy lại là nỗi ly hận của người đời sau. Nếu biết vậy, Huyền Trân
có thể chịu chết theo vua Hời chăng? Trần Khắc Chung (2) có chịu hoàn toàn thất
vọng, hy sinh mối tình đầu của mình cho dân tộc chăng? Không phải như thế, cuộc
tình duyên ấy cuối cùng chỉ là một sự lường gạt với cái cao ngạo của người Việt:
Châu đi rồi lại châu về đó
Ngơ
ngẩn trông nhau một lũ Hời.
Tráo
trở như thế thì con cháu nhận lấy cái nghiệp của cha ông là điều đương nhiên!
Cũng từ
cái nhìn như thế, Huy Phương tả oán một câu:
“Châu Ô, châu Lý mà chi nữa”.
Chỉ mới đọc mấy câu thơ đầu trong bài “Huế” của ông, người đọc tưởng
như đã vướng mắc vào vòng rối rắm của lịch sử Nam Tiến của dân tộc Việt, cũng
như triết lý nhân quả bén rễ ăn sâu trong tâm hồn người Huế, ít nhiều ai cũng
nghe, cũng biết vậy. Bên cạnh đó, Huy Phương còn dùng lại những thành ngữ, những
câu thơ cổ, những câu trong bài Nam Bình để nhắc lại câu chuyện Huyền Trân:
“Nước non ngàn dặm ra đi,
Cái
tình chi, mượn màu son phấn,
Đền
nợ Ô Ly…
Những điều tôi vừa nói, Huy Phương thấy rõ lắm, trong
“Hỡi ơi! Câu hát nghìn năm
cũ
Nét
Nam
Ai nghe tiếng tơ chùng.
Chữ “Hỡi ơi!” Huy Phương dùng ở đây rất hay. Nó biểu lộ một sự tán
thán, một thất vọng. Ông tán thán cái gì? Ông thất vọng cái gì?
Từ trước đến giờ, cả ngàn năm nay (ngàn năm chỉ là cách nói thậm
xưng. Kể từ năm 1306, năm Huyền Trân với Chế Mân đến nay chưa tới một ngàn năm),
người ta thường nghe câu hát tán tụng công đức Công Chúa Huyền Trân mở cõi đất
nước. Ngoại trừ người trong chuyện, có người nào đó dám oán than vua nhà Trần.
Có oán than chăng, thì ngay như Huyền Trân Công Chúa, bà cũng chỉ oán trách cho
số phận của mình, không dám xúc phạm đến vua cha, đến Thái Thượng Hoàng:
“Cái tình chi
Mượn màu son phấn
Đền
nợ Ô-Ly
Tiếc thay vì
Đương độ xuân thì… (3)
Theo một số người Huế, nguyên đây là bài thơ của Huyền Trân Công
Chúa làm ra để tỏ rõ số phận ai oán của mình khi về Chiêm Quốc. Vua Tự-Đức soạn
thành một bài ca Huế theo điệu Nam Bình.
Huy Phương tỏ rõ sự thất vọng, không như trong những bài ca tán tụng
công đức Huyền Trân. “Nghiệp quả” của việc đổi người lấy đất mang tính lường gạt
của vua nhà Trần ngày xưa chính là làm cho Huế chia lìa và tang thương biết bao
nhiêu bận. Cái hận và cái tang thương ấy, tác giả nghe trong
“tiếng tơ chùng”,
nghe trong “mỗi giọt
sương”
đêm:
Trên mặt đất nghìn lần chia
cắt
Một
giọt sương, một giọt ưu phiền.
Cái sức sống của Huế đã chết.
Vì Huế là kinh đô, nên cái sức sống của Huế chính là trong:
…
ngựa hí quân reo,
… trống trường thành
nổi nhịp.
Cái sức sống đó không còn, nó đã chết, đã nằm im trong đáy mộ:
Huế quên trong phần mộ tiêu
điều
Với một quan điểm đượm màu sắc Thiền, Huy Phương có cái nhìn về Huế
khác với mọi người. Cũng buồn đấy, im lìm đấy, âm thầm đấy và hết sức ngậm ngùi.
Dù đã trãi qua môt đời phiêu bạt, dù mang đôi chân mòn mõi với những
vết đau thầm, dù ông có trở về, không phải tìm lại “hồn thu thảo” mà tìm ngay
Công Chúa Huyền Trân để hỏi cho ra ngọn nguồn của bao cảnh tang thương thì Huyền
Trân hay một ai đó ông có quen biết, để ông có thể bày tỏ đôi điều tâm sự với họ,
thì mọi người nay ai cũng đã phiêu bạt, mỗi người phiêu bạt một phương trời. Dù
ông có làm một kỵ sỹ cỡi ngựa chạy bốn góc thành thì ông cũng chỉ thấy:
“Em ở đâu bên trời phiêu
bạt
Tôi
lơi cương chạy bốn góc thành
Hỏi
hoa lá, hỏi trời u tịch
Tượng đá buồn sao đứng lặng thinh?!
(Xin
xem toàn bài trong phần phụ lục)
Câu thơ nầy rất hay:
“Tượng đá buồn sao đứng
lặng thinh?”
Có
tượng đá nào nói được? Tượng chúa, tượng phật, tượng các vị anh hùng liệt nữ ở
Huế, ở Việt
Nam, ở
khắp thế giới có tượng nào nói được? Câu hỏi của ông thật vớ vẩn.
Ai đã
từng đến Huế, từng thấy các tượng đá trong Đại Nội, trên các lăng tẩm, thấy hai
hàng tượng đá đứng hai bên sân chầu, có tượng đá nào vui mà Huy Phương gọi là
tượng đá buồn? Câu nói ấy cũng vớ vẩn nốt. Nhưng cái vớ vẩn của một người đi hỏi
tượng đá chính là cái tâm trạng của một người nhiều ưu tư trước cảnh
“Dâu bể tang thương đã một
thời!”
Nếu như
tượng đá nói được - Ông có hy vọng gì tượng đá nói được mà đi hỏi tượng đá - ,
Người thì đã đi xa, tượng đá còn lại đó, chứng kiến bao nhiêu trò dâu bể, - thì
nó sẽ nói cái gì? Tượng đá đứng đó, hàng trăm năm nay, kể từ những tượng đá được
dựng đầu tiên trong Đại Nội hay trên lăng Gia Long, tượng đá sẽ nói cái gì? Nếu
tượng đá nói được, thì cũng chỉ nói tới cảnh “Thương hải biến vi tang điền”. Đó
cũng là tâm trạng Huy Phương đang có. Tâm trạng đó, tang thương đó, biết bao
nhiêu người Huế cũng đã từng chứng kiến như ông, tại sao ông không hỏi họ, những
người đồng cảnh, mà đi hỏi các hàng tượng đá? Có người không hỏi được người mà
đi hỏi tượng đá! Thế cũng là vớ vẩn đấy! Và cái vớ vẩn ấy nói lên cái gì? Cô đơn.
Ông cảm thấy cô đơn
“Khi… trở lại kinh thành cũ”.
Cái cô
đơn giữa cõi đời không có chi lạ! Đó không phải là việc Bá Nha đập vở đàn khi
nghe tin Tử Kỳ đã chết đó sao, vì đời không có kẻ “tri âm” đó sao? Đó chính là
tâm trạng Nguyễn Du khi Nguyễn Du viết: “Ai tri âm đó mặn mà với ai!”
Từ xưa, có biết bao nhiêu người làm thơ về Huế. Huế là đề tài của
những bài thơ lãng mạn, đa tình, bằng những bài thơ vướng vất nét buồn “Hậu Đình
Hoa”, … Huế được mô tả qua giòng sông Hương êm đềm, qua lăng tẩm u tịch, buồn bã.
Thậm chí cả nỗi đớn đau của vua quan mất nước như trong câu“Khô
héo lá gan cây đỉnh Ngự, Buồn vui giọt lệ nước sông Hương”
nhưng
ít ai nói như ông, nhìn như ông, qua cái lăng kính chữ “nghiệp” nhà Phật để thấy
“Huế Oan Khiên”: Trong bài thơ nầy, ông nhắc lại hầu hết những “oan khiên” Huế
đã gánh chịu: Từ Thất thủ kinh đô
“Quan quân uổng tử giờ lâm
trận”.
Huế còn
kinh hoàng với cảnh người chết thây phơi như rạ, các
“Cửa thành xương thịt phơi
năm hướng, Máu đã chan hòa cát biển đông”.
Ông cũng nhắc lại vụ Giặc Chày Vôi với cảnh
“… bách dân… Chôn vùi dưới
hào lũy Khiêm Lăng”
(4)
và “Sọ trắng giăng
hàng tết Mậu Thân”,
rồi đến
thây người chất chồng trên cửa biển Thuận An những ngày tháng 3-1975 “máu
đỏ chan hoà cát biển đông”
v.v…
Cái
oan khiên của Huế, chính là cái “quả” của một cái “nhân” không lành trong lịch
sử. Hồ Hữu Tường cũng có lần nói rằng, sở dĩ dân tộc ta bị một trăm năm đô hộ
của Tây và cuộc tương tàn kéo dài mấy chục năm cũng là cái quả do cái tội của
cha ông ta tiêu diệt nước Chiêm Thành.
Từ những oan khiên đó, không ít người bỏ Huế mà đi. Cũng không ít
người đã về lại Huế trong nỗi ngậm ngùi, và cũng không ít người đi mãi không về,
chỉ vì muốn “Đi để
mà nhớ không phải ở để mà thương.”
Huy Phương là người lãng mạn, cái lãng mạn trong thi ca Huế, trong
các hội thơ của các nhà Nho ngày xưa, kể cả vua Tự Đức, cũng như trong tiếng ca
Huế, trong tiếng đàn đêm đêm vang vọng trên mặt nước sông Hương. Nếu ngày xưa
vua Tự Đức “Đập cổ kính ra tìm lấy bóng, Xếp tàn y lại để dành hơi” (4) thì ngày
nay, một buổi trưa buồn nào đó, trong trại cải tạo, Huy Phương:
Nghiêng gương nhỏ tìm em
không thấy bóng
Ôi
hương tóc phai nhạt tháng ngày qua.
Ông thương vợ lắm đấy, dù “không thấy bóng” ông vẫn tưởng tượng
“hương tóc phai nhạt” của vợ, thấy xót xa và nỗi thương nỗi nhớ càng dày xéo
lòng ông nhiều hơn, lòng ông chùng xuống như:
“… như sợi giây đàn rung
khẻ
Trời đang mưa trên những dãy núi xa”
Trời mưa ở xa hòa với tiếng đàn rung khẻ trong lòng ông, ông nhớ vợ
trong cái lãng mạn của cảnh trời, của âm thanh. Sao ông lãng mạn đến thế!
Thơ ông như một bức tranh buồn: “Một buổi trưa có nắng mà lại đầy
mây xám, có mạch máu chảy buồn trong tim, có hồn ông chĩu xuống vì ưu tư và cả
đêm đêm chớp bể mưa nguồn:
Trưa nay một buổi trưa đầy
mây xám
Anh
lặng im nghe mạch máu chảy buồn
Không ưu tư hồn cũng như trĩu xuống
Như
mỗi đêm với chớp bể mưa nguồn
Trong
nỗi ưu phiền đó, lòng ông “trôi giạt” về quá khứ. Hai tiếng “trôi giạt” nầy thật
hay. Ông không chủ động quay về với quá khứ. Buổi trưa buồn cùng với nỗi
ưu
phiền trong lòng xô đẩy ông về quá khứ. Tâm hồn ông lúc ấy như cánh bèo trên
sông, để cho dòng nước xô đẩy, níu kéo trôi đi. Dòng nước ấy kéo lôi ông về dĩ
vãng, về với quê hương, với Huế, trong đó có người vợ ông thương yêu. Huế, trong
tâm tưởng ông là thành quách đã phai mờ, khói sương làm mờ nhạt bóng người xưa.
Ông quên người rồi chăng? Không, không quên! Chính cái buổi trưa buồn trong trại
tù nầy làm ông càng thêm nhung nhớ nên ông nghiêng gương để tìm lại bóng người
xưa.
Ông lớn
lên ở Huế, nơi đó, ông có một thời để yêu, một thời để mơ mộng vì quê hương ấy
đầy những vẻ nên thơ mơ mộng. Ông đã đi qua bao nhiêu hồ sen ở Huế, hồ Tịnh Tâm,
hồ Tàng Thơ, hồ Chương Đức, hồ Hòa Bình… Bất cứ ở mặt hồ nào ông cũng thấy tâm
hồn người ông yêu mến:
Một thời
để yêu, một thời mơ mộng
Tâm hồn em như mặt nước hồ sen
Có một sáng mùa thu nghe xao động
Ngọn gió về theo hơi thở thân quen
Người Huế, hoặc ai từng sống ở Huế lâu như tôi, lang thang quanh Huế,
lang tẩm đền đài miếu mạo từ những ngày niên thiếu, có lẽ dễ cảm nhận thơ Huy
Phương hơn người khác. Thật đấy. Có đứa bé nào đến Huế đi ngang cửa Ngăn mà
không tò mò về 9 cây súng thần công đặt trong hai căn nhà ngói ở đây. Hai căn
nhà 10 gian mà chỉ có 9 cây súng. Một gian trống. Tại sao? (5) Hãy nghe Huy
Phương nói về thời niên thiếu của ông với những cây súng thần công:
Buổi học dưới mái im nhà
súng
Anh
ngủ quên trên những khẩu thần công
Bỏ
công thức mơ làm thân Từ Thức
Tâm
hồn theo ngọn mây trắng thong dong.
Mùa hè nóng nực lại là mùa thi. Bọn học trò thường tìm vài nơi mát
mẻ để học bài thi: Nhà súng ở cửa Ngăn, tòa Khâm Thiên Giám nơi góc tây-nam
thành nội Huế, trên các cửa thành: Thượng Tứ, Đông Ba, cửa Hữu, cửa Chánh Tây,
v.v… Huy Phương nằm trên giá súng, và… ngủ quên! Quên luôn cả những công thức
toán học, hình học, vật lý học để mơ làm… Từ Thức, làm… Lưu Nguyễn là những nhân
vật trong truyện lạc vào cõi tiên mà nhiều đứa trẻ Huế đã từng nghe ông bà cha
mẹ kể khi chúng còn bé. Không như miền
Nam,
miền Bắc, Huế nhiều dâu bể. Và cũng từ đó, không ít người ngày xưa đã mơ làm Lưu
Thần Nguyễn Triệu, lìa bỏ Kinh Đô mũ cao áo dài, cuộc đời đầy dẫy muộn phiền để
phiêu bồng nơi tiên cảnh. Huy Phương đã từng mơ. Ông đã từng đi tìm đường nhưng
lạc vào… quân đội, như một người đi lạc vào…lịch sử vậy. Ai có cách nào khác hơn
khi thấy “Quốc gia hưng vong…”. Đó cũng là câu người Huế rất thường nói với con
cháu trước bao cảnh đổi dời.
Tuy nhiên, đối với ông, thời niên thiếu ấy, mơ thì mơ mà vẫn thấy:
…… những ngày thơ mộng
Với:
Đường Thành Nội đi về ngày
hai buổi
Cầu
Trường Tiền đêm nhớ dấu trăng soi.
Ông mơ về
“… những chiều mưa tháng
Bảy”, “Những sợi nắng hanh vàng”
giữa
mùa đông, những cô học trò Đồng Khánh đang giữa trưa sợ
“Lỡ chuyến đò”
ở bến
sông Thừa Phủ.
Tại sao lại những
“chiều mưa tháng Bảy”.
Nắng “Tháng Tám nám trái bưởi” là nắng gắt lắm nhưng “Tháng Bảy nước nhảy lên bờ”.
Huy Phương nhớ mùa lụt của sông Hương đấy. Bọn học trò Huế đứa nào chẳng “lội
nước lụt” ở Huế. Tôi cũng vậy. Đã có lần tôi cùng Hoàng Xuân Sơn, Ngô Vương Toại,
Hoàng Ngọc Tuấn cùng nhau đi lội nước lụt ở Đập Đá mùa lụt năm 1959.
Xứ Huế lạnh vì những cơn gió heo may. Cũng không bằng cái heo may
của Quảng Trị, quê ngoại tôi. Nhưng heo may Huế cũng đủ lạnh để người học trò
thấm thía và bỗng chợt vui giữa mùa đông khi
“có nắng hanh vàng.”
Chính Xuân Diệu cũng thấy như vậy khi ông viết “Giữa mùa Đông khi nắng sớm lên
vừa” và Xuân Diệu cho đấy là mùa mùa Xuân đang tới.
Trầm Tử Thiêng đã thấy những cô học trò Đồng Khánh áo trắng, trắng
cả sân trường, cả cầu Trường Tiền nhưng không biết Trầm Tử Thiêng có thấy những
cô học trò ôm cặp đi học qua bến đò Thừa Phủ. Những chiếc áo trắng trắng cả con
đò sang sông và không ít cô hối hả vì sợ “lỡ chuyến đò”.
Huy Phương người không lớn nhưng tâm hồn ông thiệt rộng, chứa hết cả
trời Huế, cảnh Huế và người Huế, - và cả những cô học trò áo trắng - qua đó,
giống như Xuân Diệu đã từng trách trời “Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật”.
Huy Phương nhớ nước lụt sông Hương, nhưng chắc chắn ông cũng không
quên đôi bờ xanh của giòng sông ấy khi ông viết
“Một giòng sông với đôi bờ
xanh mướt”.
Những
hàng phượng hai bên bờ sông
“phượng chẳng đỏ hàng cây”
thậm chí cả đạp xe theo một cô nào đó
“Gót chân hồng chậm theo
bánh xe quay.”
Tôi thích một điều hơn khi thấy ông viết
“Những con đường mang theo
hồn bướm trắng”
câu thơ lãng mạn như anh chàng Trương với cô Thu trong “Bướm Trắng”. Ít ra, ai
từng là học trò tất phải học và viết bài phê bình “Bướm Trắng” trong chương
trình Việt Văn lớp đệ nhị. Và còn bao nhiêu điều khác về Huế nữa, không thể nói
hết ở đây, trên dăm trang giấy.
Huy Phương rất
lãng
mạn. Ông yêu cảnh, yêu người, yêu cả hai hàng tượng đá, cả cây súng thần công,
v.v… và để xao xuyến với
“Một buổi trưa đầy mây xám”,
để thấy “tâm hồn
trĩu xuống”
hoặc đêm đêm trong cảnh
“Chớp bể mưa nguồn”.
Hơn thế nữa đấy. Huế vốn dĩ lãng mạn đa tình. Điều ấy, người học trò chịu ảnh
hưởng khi học Kiều hay Chinh Phụ Ngâm. Ông mơ có tiếng trống. Tiếng trống ở đâu?
Trước Tam Tòa, trong Đại Nội hay trống trường Đồng Khánh (6) khi ông viết
“Không tiếng trống làm rung
vầng trăng lạnh”?
Xa hơn
thế nữa: Tiếng trống trên Vạn Lý Trường Thành. Có lẽ ông chưa tới Vạn Lý Trường
Thành trong đời thực nhưng ông đã đến đó trong… sách vở khi ông học “Trống
Trường Thành lung lay bóng nguyệt”. Cũng như rất nhiều - rất nhiều - người Huế,
Huy Phương không thể khác được, không thể không lãng mạn, đa tình. Cảnh như thế
ấy, người như thế ấy, lịch sử, tình sử đau thương như thế ấy, và cả chương trình
học như thế ấy, chưa kể tiếng thơ, tiếng đàn, tiếng ca dìu dặt trên sông Hương
đêm đêm như thế ấy, thậm chí cả những tiếng ca của “Thương nữ bất tri vong quốc
hận” vây bủa như thế ấy, mấy ai tránh khỏi!
Chính nhờ cái lãng mạn đa tình đó, ông đâm ra mê mệt vì
“Mái
tóc em chảy dài dưới nón,
Đẹp
mênh mang hình ảnh của đêm dài
Mối
tình nào không phải là tình sử
Kỷ niệm
một thời đâu dễ lạt phai
Không
dễ lạt phai nên một buổi trưa trong tù - trại Tân Kỳ - Nghệ Tĩnh - trong cơn mưa
buồn, ông bỗng thấy nhớ rất rõ rất chi tiết từng kỷ niệm cũ, thời niên thiếu,
thời yêu đương, “yêu em” cùng với
“Từng giọt buồn rơi”.
Trong
trại tù, nằm gối đầu lên tay, không cần tới cảnh “Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê
đầu tư cố hương”, chỉ cần một cơn mưa trong một buổi trưa ồn ào ở những người tù
chung quanh nhưng quá lặng lẽ trong tâm hồn quạnh hiu của mình cũng đủ làm cho
người tù nhớ vô cùng quê hương và vợ hiền.
Trời có
bốn phương. Ở đây chỉ cần hai phương: Phương nầy của người tù và phương ấy của
người vợ mà phương nào cũng cô đơn. Chỉ chừng đó cũng đủ xót xa, thấm thía, nói
chi tới việc đọc mấy câu thơ sau:
Em với
quê hương xa tầm tay với
Vẫn
bên anh trong mỗi phút vui buồn
Anh biết ngày qua ngày em ngóng đợi
Mỗi
phương trời có một nỗi cô đơn
hoàng long hẢI (tuỆ chương)
1)-
Phía nam chân đèo Hải Vân là làng Nam-Ô, theo học giả Thái Văn Kiểm, Nam Ô có
nghĩa là phía Nam châu Ô. Cách Mỹ Chánh khoảng 10 Km về phía Nam có sông Ô-Lâu.
Theo vài nhà sử học, tên Ô-Lâu nầy cũng lấy từ gốc châu Ô. Có thể coi châu Ô
bắt đầu từ sông Ô-Lâu cho tới đèo Hải Vân. Nếu luận như thế thì Quảng Trị
thuộc châu Rí.
2)-
Trần Khắc Chung là người yêu của Huyền Trân Công Chúa từ trước khi bà về Chiêm
với Chế Mân. Chưa được một năm thì Chế Mân chết. Theo tục của người Chiêm Thành,
khi vua chết, các hậu phải bị hỏa thiêu và chôn theo chồng. Vua Trần Anh Tông
sai Trần Khắc Chung giả đi thăm đám tang rồi liệu cách đưa
công chúa về. Khắc Chung
cứu được công chúa lên thuyền ra biển về Thăng Long. Hai người đi lạc, phải một
năm sau mới về tới nơi. (Theo Việt
Nam Sử Lược -Trần Trọng
Kim, cuốn 1, trang 167)
3)-
Bài ca Huế theo điệu
Nam Bình, do vua Tự
Đức soạn. Có người nói nhà vua lấy ý từ một bài thơ do Huyền Trân Công Chúa làm
ra khi về Chiêm Quốc.
4)- có
người nói hai câu thơ nầy là của Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều.
5)-
Giặc Chày Vôi
6)- Từ
phía trong cửa Ngăn đi ra ngoài thành, người thấy bên tay trái có hai ngôi nhà
ngói kế nhau, mỗi ngôi nhà có năm gian nhưng chỉ có 9 gian có đặt những cây súng
thần công lớn như nhau, giàn súng có bánh xe để di chuyển được, một gian để
trống. Hồi còn bé, khi mới đến Huế, tôi thắc mắc hỏi mấy đứa bạn Huế rặc của tôi.
Chúng nó bảo: Có một thằng Tây con chơi nghịch, đút cánh tay vào trong họng súng,
bị thần súng giữ chặt, không rút tay ra được. Người ta phải cắt tay đứa bé. Và
cây súng ấy được chở về Pháp để “trị tội”. Thật ra, nhà Nguyễn chỉ cho đúc 9 cây
súng thần công để giữ 9 cửa thành. Đó là: 1)- Cửa Thượng Tứ, 2)- cửa Ngăn (tên
gọi nôm, không biết tên chữ là gì), 3)- Cửa Nhà Đồ (Thường gọi là cửa Sập vì cửa
nầy bị sập vì trận lụt lớn năm Thìn 1953, 4)- cửa Hữu, 5)- cửa Chánh Tây, 6)-
cửa An-Hòa, 7)- cửa Hậu (cửa sau thành Mang Cá - ngó ra phía bắc), 8)- cửa Trài
(cũng là cửa sau thành Mang Cá – ngó ra phía Đông) và 9)- cửa Đông Ba.
7)-
Để báo giờ học,
trường Đồng Khánh đánh trống, trường Khải Định (Quốc Học) đánh chuông. Không ít
học trò giờ ra chơi đã dấu dùi trống, dùi chuông để… chơi thêm chút nữa.
HUẾ
Khi tôi
trở lại kinh thành cũ
Dâu bể
tang thương đã một thời
Nghiệp
số Huyền Trân còn lận đận
Nghìn
sau còn lưu lạc đất Hời.
Em đã phai tàn bao xuân sắc
Nước non ngàn dặm thuở ra đi
Châu Ô, Châu Lý mà chi nữa
Đất đã đem về nỗi chia ly.
Trong khu vườn nghe chim lặng tiếng
Đèn nhà ai thấp thoáng bên sông
Hỡi ơi câu hát nghìn năm cũ
Nét nam ai nghe tiếng tơ chùng.
“Sen xa hồ, sen khô hồ cạn
Lựu xa đào, lựu ngã đào nghiêng”
Trên mặt đất nghìn lần chia cắt
Mỗi giọt sương, một giọt ưu phiền.
Bóng
chiều phủ nhạt mờ sương khói
Còn đâu
tiếng ngựa hí quân reo
Còn đâu
trống trường thành nổi nhịp
Huế
quên trong phần mộ tiêu điều.
Nỗi buồn tôi, nỗi buồn lăng tẩm
Tiếng thông reo, suối chảy ngậm ngùi
Xương cốt đã tan theo bùn đất
Mà hồn còn vướng vất không thôi.
Tôi trở về đây chiều xế bóng
Tấm thân gầy, mái tóc hoa râm
Cả một đời chân đi mòn mỏi
Vẫn thấy đau những vết đau thầm.
Em ở đâu bên trời phiêu bạt
Tôi lơi cương chạy bốn góc thành
Hỏi hoa lá, hỏi trời u tịch
Tượng đá buồn sao đứng lặng thinh ?
HUY-PHƯƠNG
HUẾ OAN KHIÊN
Để nhớ
những oan khuất Mậu Thân (1968)
Chiêng
trống nào xin hãy nổi lên
Gọi hồn
vất vưởng chốn oan khiên
Quan
quân uổng tử giờ lâm trận
Tử tội
thân lê đoạn xích xiềng.
Những
giọt đàn bầu tiếng nỉ non
Nhị hồ
réo rắt gọi vong hồn
Cửa
thành xương thịt phơi năm hướng
Máu đỏ
chan hòa cát biển đông.
Hãy
thổi lên một đoạn sáo buồn
Trong
đêm than thở tiếng ca ngâm
Gọi hồn
lãng đãng chưa siêu thoát
Gọi xác
ngậm ngùi chưa rửa tan.
Xương
thịt nào của những bách dân
Chôn
vùi dưới hào lũy Khiêm Lăng
Kinh đô
thịt nát ngày thất thủ
Sọ
trắng giăng hàng tết Mậu Thân.
Hãy
gióng lên ơi những hồi chuông
Vang về
vách núi, dội ven sông
Hồi
chuông siêu thoát cho oan khuâát
Lạnh
lẽo âm thầm chẳng khói hương.
Hãy
đánh lên ơi những tiếng cồng
Tù và
rúc gọi hồn lưu vong
Tuổi
trai tan nát đời chinh chiến
Đầu núi,
thân non, chân đạp rừng.
Xin gọi
trăng soi khe Đá Mài
Thời
gian rêu phủ mảnh đầu ai
Bãi Dâu
đau xót hồn Gia Hội
Phú Thứ
tóc vương trảng cát dài.
Xin
tụng cho hồn một thửa kinh
Được
nơi bến Giác, ngộ duyên lành
Vượt
qua hết kiếp trầm luân ấy
Nếu
thật hồn ơi có hiển linh!
Hãy
dựng lên trăm tháp trai đàn
Xin
cùng trì chú với chư tăng
Đốt
nghìn ngọn nến lung linh sáng
Rưới
rượu cho hồn được giải oan.
Mệnh sử
một thời mảnh đất Chiêm
Nghìn
năm thương Huế nỗi oan khiên
Nam ai
một khúc ca đòi đoạn
Trăng
khuyết, nhang khuya, lạnh miếu đền…
HUY-PHƯƠNG
QUÊ HƯƠNG VÀ EM
Nghiêng
gương nhỏ tìm em không thấy bóng
Ôi
hương tóc phai nhạt tháng ngày qua
Lòng
anh như sợi giây đàn rung khẻ
Trời
đang mưa trên những dãy núi xa .
Trưa
nay một buổi trưa đầy mây xám
Anh
lặng im nghe mạch máu chảy buồn
Không
ưu tư hồn cũng như trĩu xuống
Như mỗi
đêm chớp bể với mưa nguồn.
Anh
trôi dạt về một thời xa cũ
Thành
quách xưa đã cổ kính phai mờ
Không
tiếng trống làm rung vầng trăng lạnh
Mà khói
sương mờ nhạt bóng người xưa.
Anh đã
sống qua những ngày thơ mộng
Với Huế
quê hương yêu dấu muôn đời
Ðường
Thành Nội đi về ngày hai buổi
Cầu
Trường Tiền đêm nhớ dấu trăng soi.
Buổi
học bài duới mái im nhà súng
Anh ngủ
quên trên những khẩu thần công
Bỏ công
thức mơ làm thân Từ Thức
Tâm hồn
theo ngọn mây trắng thong dong.
Ở đó có
những chiều mưa tháng bảy
Suốt
mùa đông nhớ sợi nắng hanh vàng
Cô
thiếu nữ nón nghiêng che cặp sách
Trưa
vội vàng sợ lỡ chuyến đò ngang.
Một
giòng sông với đôi bờ xanh mướt
Mùa hạ
nào phượng chẳng đỏ hàng cây
Những
con đường mang theo hồn bướm trắng
Gót
chân hồng chậm theo bánh xe quay.
Tiếng
ve nào đang rung đàn hợp tấu
Trong
khu vườn vắng lặng giữa trưa nay
Dưới
bến nước có tiếng chèo khua sóng
Bên kia
nhà thấp thoáng áo ai bay.
Mái tóc
em đã chảy dài dưới nón
Ðẹp
mênh mang hình ảnh của đêm dài
Mối
tình nào không phải là tình sử
Kỷ niệm
một thời đâu dễ lạt phai.
Một
thời để yêu, một thời mơ mộng
Tâm hồn
em như mặt nước hồ sen
Có một
sáng mùa thu nghe xao động
Ngọn
gió về theo hơi thở thân quen.
Ngày
tiếc nuối khi viết giòng lưu bút
Còn nhớ
gì trên trang giáo khoa thư
Khi
cổng trường người phu già khép kín
Hàng
cây vàng rụng chiếc lá ưu tư.
Thuở
đứng chờ trước ngõ dài hun hút
Bước
vẩn vơ bứt chiếc lá trên cành
Em vắng
bóng vì mùa thi sắp tới
Anh vội
vàng vì tình quá mong manh.
Em còn
nhớ những ngày anh đứng đợi
Dưới
bóng cây ngóng giờ trống tan trường
Chân
bước nhẹ mà lòng nghe run rẩy
Những
phút đầu đi bên cạnh người thương.
Kỷ niệm
đã ngủ yên cùng ngày tháng
Giữa
trưa nay thức dậy với mưa về
Từng
giọt buồn rơi với từng giai điệu
Gối tay
gầy anh lặng lẽ nằm nghe.
Em với
quê hương xa tầm tay với
Vẫn bên
anh trong mỗi phút vui buồn
Anh
biết ngày qua ngày em ngóng đợi
Mỗi
phương trời có một nỗi cô đơn .
HUY-PHƯƠNG
Trại
Tân Kỳ -Nghệ Tĩnh
9-1980
3 comments:
Tại sao nên sử dụng Fine pure Collagen ?
- fine pure collagen gia bao nhieu có công nghệ Gien là công nghệ vượt trội giúp trẻ hóa các tế bào cách làm chè khúc bạch uyen thy từ trong ra ngoài. Giúp cho da không nhăn, trẻ hóa và khỏe mạnh
- Ngoài ra còn có Co.Q10 giúp da trắng sáng, chống lão hóa và collagen shiseido loại nào tốt giúp tốt cho tim mạch, tăng cường hệ miễn dịch, chống lại bệnh tật.
- Chrodroitin, giúp da không bị nhờn, không chảy xệ. Tốt cho mắt & cơ khớp gối.thực đơn cho sản phụ sau sinh mổ
- Vitamin C giúp da không bị khô & da dẻ mịn màng. Tăng sức đề kháng cho cơ thể.
- Collagen chống nhăn, giúp tăng độ đàn hồi cho da.
- Với collagen của nước nào tốt nhất cho phụ nữ Việt Namnhững tính năng vượt trội , độc quyền công nghệ tinh trùng gặp trứng sau bao lâu thì thụ tinhGien hơn hẳn những loại Collagen khác trên thị trường vừa không nhăn, vừa trẻ hóa vừa khỏe mạnh từ bên trong ra tới gương mặt thì Fine Pure Collagen rất nên được sử dụng thường xuyên. mang thai tháng thứ 4 có nên uống nước dừa
Xem chi tiết các sản phẩm cửa tự động tại đây: http://groupthuanphat.com/san-pham/cua-tu-dong/
Cửa trượt Nhật Bản một trong những thương hiệu được nhiều người tiêu dùng tại Việt Nam lựa chọn. Vậy có tốt không, xem chi tiết tại đây nhé: http://groupthuanphat.com/cua-truot-tu-dong-nhat-ban/
Thi công và lắp đặt barrie ở đâu tốt và tiết kiệm nhiều chi phí nhất http://groupthuanphat.com/chuyen-nhan-lap-dat-barrier-tu-dong-chat-luong-tot-nhat/
https://servicecenteriphone.blogspot.com/ http://www.lampungservice.com/2018/05/kode-rahasia.html
https://kursusteknisiservicehp.blogspot.com/https://jskursus.blogspot.com/https://kursusservicehplampung.blogspot.com/
https://jasaserviceteknisi.blogspot.com/https://jasaeditfotobandarlampung.blogspot.com/https://sevicecenterhimax.blogspot.com/https://servicecenteradvan.blogspot.com/
https://jasapengetikandibandarlampung.blogspot.com/
Post a Comment